CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2021

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa được xác định là một trong những mối quan hệ lớn cần phải giải quyết hài hòa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời kỳ đổi mới thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách góp phần định hướng, giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Thực chất của mối quan hệ này là đảm bảo mục tiêu gắn kết một cách cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội. Đây cũng là một trong những tiêu chí để  đánh giá sự phát triển bền vững của một quốc gia.

1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa

Thực tiễn quá trình phát triển cho thấy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia.

Tăng trưởng kinh tế hiểu theo nghĩa chung nhất là sự gia tăng về quy mô sản lượng nền kinh tế, gia tăng thu nhập của người dân trong một thời gian nhất định của một quốc gia, một vùng hay một ngành kinh tế. Các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Có hai mô hình tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế, chịu tác động bởi các nhân tố kinh tế như: vốn, lao động, tiến bộ công nghệ... và các nhân tố phi kinh tế: văn hóa - xã hội, thể chế, sự tham gia của cộng đồng...

Phát triển văn hóa là khái niệm đa nghĩa. Thứ nhất, văn hóa được hiểu như là năng lực sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Do đó, văn hóa là phạm trù chỉ thuộc tính của con người (cá nhân và cộng đồng), đánh giá trình độ và chất lượng sống của con người trong hoạt động thực tiễn xã hội. Thứ hai, văn hóa được hiểu là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên sự phát triển của cơ sở hạ tầng mà cốt lõi là kinh tế. Kinh tế là cơ sở, là điều kiện để phát triển văn hóa. Văn hóa phản ánh sự phát triển kinh tế  -  xã hội và có tác động năng động đối với tồn tại xã hội, đối với kinh tế. Vì vậy, muốn xây dựng và phát triển nền văn hóa thì phải phát triển kinh tế, chống chủ nghĩa duy tâm, giáo điều. Thứ ba, văn hóa là một trong bốn lĩnh vực chủ yếu quốc gia: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, nhấn mạnh: văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội. Đây là tiền đề để khắc phục xu hướng coi nhẹ văn hóa, xem thường các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; tuyệt đối hóa nhân tố kinh tế.

Như vậy, xét trong mối tương quan giữa chính trị, kinh tế, xã hội thì văn hóa là một bộ phận đóng vai trò trụ cột như các lĩnh vực khác, cần có sự quan tâm đầy đủ và đồng bộ để tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong quá trình phát triển. Phát triển văn hóa ở đây chính là phát triển các lĩnh vực hoạt động văn hóa, từ việc xây dựng con người, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống tới xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật, truyền thông đại chúng, giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa...

2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới.

Nhìn một cách tổng quát, tăng trưởng kinh tế sẽ tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển văn hóa và con người, tạo điều kiện để con người có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa ngày càng nhiều. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế bền vững, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế bền vững với bảo đảm các vấn đề xã hội và môi trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người là mục tiêu hàng đầu.

Mặt khác, văn hóa phát triển sẽ góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, tạo lập môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, nâng cao trình dân trí, trình độ khoa học công nghệ, nâng cao kỷ cương, kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. Đây chính là điểm tương đồng, nơi hội tụ định hướng phát triển của kinh tế và văn hóa.

Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú ý đến mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Văn kiện Đại hội VI (1986), nhấn mạnh: “Mục tiêu ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất không chỉ là phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà còn là giải quyết các vấn đề xã hội, từ công việc làm đến đời sống vật chất và văn hóa, bồi dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ  xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao động là lực lượng sản xuất lớn nhất, là chủ thể của xã hội”.

Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng xác định các mối quan hệ lớn cần phải giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững đất nước, không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Trong đó có mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.

Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã rút một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học “Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”. Đại hội tiếp tục nhấn mạnh việc gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế và văn hóa trong quá trình phát triển bền vững đất nước. Đại hội XII, Đảng đã xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng  kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững...”.

Qua hai nhiệm kỳ Đại hội XI và XII (10 năm), việc thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế tuy đạt được một số kết quả tích cực, nhưng vẫn chưa tạo được bước chuyển căn bản sang mô hình phát triển kinh tế mới. Hơn nữa, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và đất nước, nhất là tác động của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, những diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch Covid-19...  Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra nhiệm vụ “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng” với nhiều nội dung mới, yêu cầu mới. Văn kiện Đại hội XIII xác định cần phải “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng”, “chuyển mạnh” nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng mới, “tạo bứt phá” trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đại hội XIII xác định rõ trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới, việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh phải dựa trên tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhân lực chất lượng cao; sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo... Đổi mới mô  hình tăng trưởng kinh tế được đẩy mạnh bằng động bộ nhiều giải pháp, trong nhiều ngành, lĩnh vực.

Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất  để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa vẫn được xác định là một trong các mối quan hệ lớn cần được nhận thức đúng, đầy đủ, tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện.

Đánh giá về nhận thức lý luận, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa của đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay đều hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Điểm tương đồng tạo nên sự thống nhất trong tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của con người. Sự tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, các hoạt động kinh tế chưa có sự gắn kết chặt chẽ với văn hóa; hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế và văn hóa chưa thực sự quan tâm đến sự gắn kết này.Trong việc phân bổ các nguồn lực, Nhà nước thường tập trung cho nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, chưa đầu tư đúng mức cho văn hóa. Chưa tích cực chủ động tham gia vào “làm giàu bằng văn hóa” để phát triển kinh tế  -  xã hội. Sự tách rời giữa hoạt động kinh tế và hoạt động văn hóa có chiều hướng gia tăng cả ở các cấp Trung ương, cấp bộ, ngành và địa phương. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa không phải là mối quan hệ cơ học, tách biệt hoặc đối lập nhau mà quan hệ biện chứng, thể hiện ở chất lượng phát triển bền vững của quốc gia. Nếu tăng trưởng kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất thì phát triển văn hóa để tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Sự phát triển đồng bộ của hai lĩnh vực trọng yếu này góp phần vào sự phát triển bền vững đất nước. Định hướng giá trị cốt lõi của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển nhân cách của mỗi con người. Nếu tiềm lực kinh tế cùng với chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là “sức mạnh cứng” thì văn hóa chính là “sức mạnh mềm”, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đầu tư cho phát triển văn hóa không chỉ là đầu tư cho vấn đề phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng môi trường văn hóa mà còn là đầu tư để phát triển “sức mạnh nội sinh”, đầu tư để phát triển “sức mạnh mềm” của dân tộc trong hội nhập quốc tế.

Giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Sự điều tiết của Nhà nước cần phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Cần xác định rõ chủ thể của việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Nếu không xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong việc xử lý mối quan hệ này, quan điểm, chủ trương không thể đi vào cuộc sống. Quốc hội, Chính phủ phải kết hợp thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành luật pháp và chính sách, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong xử lý mối quan hệ này. Việc phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong giải quyết mối quan hệ này là cơ sở để kiểm tra, giám sát được các hoạt động thực tiễn. Khi đó, quan điểm chủ trương của Đảng mới được thực thi có hiệu quả.

                                            P.T.T - K3


0 nhận xét: