Tồn tại xã hội là toàn bộ điều kiện
sinh hoạt vật chất và quan hệ vật chất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử
nhất định. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số, trong đó, phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tồn tại xã hội ở nước ta nói chung, phương thức sản
xuất nói riêng được phản ánh rõ nét, gồm những đặc điểm:
Trên phạm vi toàn thế giới, thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội được đánh dấu bằng thành công của cuộc Cách mạng
tháng 10 Nga vĩ đại, ở Việt Nam, sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về đình chỉ
chiến tranh, lập lại hòa bình Đông Dương được kí kết, miền Bắc bắt đầu thời kì
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đến năm 1975, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, phương thức sản xuất xã
hội chủ nghĩa đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế, bên cạnh đó, còn tồn
tại cả các phương thức sản xuất khác. Sự tồn tại này được Đảng ta thừa nhận là
một tất yếu khách quan: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”[1].
Các thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng: “Doanh nghiệp nhà nước
từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng
khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng
bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”[2] góp phần vào thành tựu chung của đất nước
sau hơn 35 năm đổi mới: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3].
Hai là, tồn tại xã hội quy định ý
thức xã hội ở nước ta hiện nay.
Tồn tại xã hội ở nước ta hiện nay
được phản ánh trong Văn kiện Đại hội XIII, mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn
chế, khó khăn, thách thức cần phải vượt qua: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra
còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập
trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa…”[4],
nhưng thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được cũng rất đáng tự hào: “Đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được
nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”[5].
Những thành tựu đó chính là sự
khẳng định con đường tiến lên xã hôi chủ nghĩa mà Đảng và dân tộc ta đang đi là
hoàn toàn đúng đắn, từ đó củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm xây dựng thành công
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Mục tiêu của chúng ta
là: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm
2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[6].
Cơ sở lý luận và thực tiễn của mục
tiêu đó chính là đường lối, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, và thực trạng tồn tại xã hội
mà đất nước chúng ta đã đạt được sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới.
Hay nói cách khác, tồn tại xã hội ở nước ta hiện nay là cơ sở thực tiễn khách
quan, quy định ý thức xã hội về khát vọng, mục tiêu xây dựng, phát triển đất
nước trong giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, cần nhận thức rõ:
Thứ nhất, thấy rõ mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là
hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả
hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện
cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội. Mặt khác, cần thấy rằng không chỉ những
biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong
đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh
thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận
đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời
sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Mặt khác phải tránh tái phạm sai làm chủ quan duy ý chí
trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực
sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội - xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác
lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành
công công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thứ hai, quán triệt quan điểm của
Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan, mà còn có vai trò
to lớn vì: sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lí phù
hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Chính sự
phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao
động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành
phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nền
kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh
tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy
mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền. Điều đó góp
phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế
xã hội.
Xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức
kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó
là những "cầu nối", trạm "trung gian" cần thiết để
đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với
nó là các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ
bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp
ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội, có
tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các tiềm
năng của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên,
kinh nghiệm quản lí để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
Thứ ba, củng cố lòng tin vào thành
công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Mục tiêu xây dựng, phát triển đất
nước trở thành nước phát triển vào năm 2045 là rất cao. Trong những năm tới,
tình hình thế giới, khu vực, trong nước được dự báo có những diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó lường, có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức
đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, vượt lên mọi sóng gió, với chủ trương
đúng đắn, sự ủng hộ của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ động, không
ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng
kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam để đổi mới toàn diện, đồng bộ, có bước
đi phù hợp: luôn tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn, giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Nhờ
đó, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã đạt những bước tiến rất quan trọng trong việc hoàn
thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực thể
chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu
quả. Tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của nước ta luôn đạt mức cao của khu vực
và thế giới. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém
phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quan trọng hơn, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển; việc tăng trưởng kinh tế luôn gắn kết hài hòa với phát triển
văn hóa, xây dựng con người, thực hiện an sinh, công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, chăm lo sức khỏe của nhân
dân luôn được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên hàng đầu.
Những thành tựu tiêu biểu đó là
tiền đề quan trọng để Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội; là cơ sở, nền tảng vững chắc để củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng,
với chế độ - nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn; đồng thời, là minh chứng bác bỏ những xuyên tạc của các phần tử chống đối,
thù địch.
N.T.L - H2
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.129.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.60.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.103.
[4] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST,
H. 2021,
tr.108.
[5] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST,
H. 2021,
tr.103.
[6] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST,
H. 2021,
tr.112.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét