Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình thành và phát triển. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Phát huy truyền
thống
văn
hoá dân tộc, dưới
sự
lãnh đạo
của
Đảng,
là
nhân lên sức mạnh
của
nhân dân ta để vượt qua khó
khăn,
thử
thách, xây dựng
và
phát triển
kinh tế
- xã hội,
giữ
vững
quốc
phòng, an ninh, mở
rộng
quan hệ
đối
ngoại
, tạo
ra thế
và
lực
mới
cho đất
nước
ta tiến vào
thế
kỷ
XXI .
Giữ
gìn và
phát huy bản
sắc
văn
hoá dân tộc là
chăm
lo cho sự trường tồn và phát triển
sức
sống
của
dân tộc.
Song điều
này
khác hẳn
xu hướng
phục
cổ
như
đã xảy ra gần
đây ở nhiều
nơi
trong ma chay, cưới xin, lễ hội. Trong bài nói tại Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958, Chủ tịch
Hồ
Chí Minh chỉ rõ:
“Nói khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt,
còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Xem ra thì năm nay tương
đối
khá, còn như năm
ngoái, thì khôi phục vốn cũ, thì khôi
phục
cả
đồng
bóng, rước
xách thần
thánh. Vì khôi phục như thế, nên ở nông
thôn nhiều nơi quên cả
sản
xuất,
cứ
trống
mõ bì bõm, ca hát
lu bù...”. Trong vốn
cổ
dân tộc,
chúng ta giữ lấy và phát huy
những
di sản
nào,
từ
bỏ
những
di sản
nào,
điều
đó không thể không đặt ra khi nói về những giá trị truyền thống. Sự cân
nhắc
và
lựa
chọn
ấy
thể
hiện
quá trình tự ý thức dân tộc, quá trình tự nhận thức, tự khám phá
về
mình xuất
phát xuất
phát từ
tầm
cao mới
của
lịch
sử,
là
quá trình “gạn đục khơi trong”
và
là
sự
tiếp
nối
dòng chảy
liên tục
của
lịch
sử
dân tộc
trong thế giới hiện đại. Với ý nghĩa đó,
phát huy và bảo vệ bản sắc dân tộc
của
văn
hoá đòi hỏi sự
phát triển,
sự
sáng tạo
không ngừng.
Trong điều
kiện
thực
hiện
kinh tế
thị
trường,
mở
rộng
giao lưu
quốc
tế
lại
càng
phải
nhấn
mạnh
yêu cầu
ra sức
kế
thừa
và
phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc.
Đó không chỉ
là
ý thức
trách nhiệm,
mà
còn là
niềm
tự
hào,
tự
tôn dân tộc, bởi
“Nước Đại
Việt
ta từ
trước,
Vốn
xưng
nền
văn
hiến
đã lâu”. Những đặc trưng nổi bật nhất của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, yêu lao động, lòng nhân
ái, vị
tha và
tính cộng
đồng.
Những
giá trị
truyền
thống
đó đã
từng
là
nguồn
sức
mạnh
to lớn
trong sự
nghiệp
dựng
nước
và
giữ
nước.
Ngày
nay trong qúa trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những truyền thống ấy vẫn đang là những đòi
hỏi
cần
phải
có đối với
mọi
người.
Không phải bất cứ dân tộc
nào
trên hành
tinh này
cũng
có được may mắn
kế
thừa
những
truyền
thống
và
bản
lĩnh
văn
hoá như
vậy.
Dân tộc
Việt
Nam có truyền
thống
tự
tôn nhưng
không tự
cao, tự
đại,
càng
không đóng cửa để
tự
ngắm,
tự
cô lập
mình .
Cũng như suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc, từ khi Đảng ta ra đời, phần lớn thời gian là phải lãnh đạo nhân dân
tiến
hành
chiến
tranh chống xâm lược,
bảo
vệ
nền
độc
lập
dân tộc.
Thế
nhưng,
chúng ta chưa bao giờ chủ trương một thái độ bài ngoại về văn hoá, kể
cả
với
nền
văn
hóa của
nước
đang
là
kể
thù xâm lược. Trái lại, Đảng
ta luôn nhấn
mạnh
tính dân tộc đồng
thời
với
tính khoa học
và
đại
chúng; tính tiên tiến gắn với yêu cầu
phải
đậm
đà
bản
sắc
dân tộc.
Đó chính là bản lĩnh văn hoá của Việt Nam. Nhờ đó,
dù trải
qua biết
bao thăng
trầm
của
lịch
sử,
đứng
trước
âm mưu
đồng
hoá văn
hoá của
đủ
loại
kẻ
thù, nhưng
“Bốn nghìn năm ta lại
là
ta”; bản
sắc
văn
hóa Việt
Nam không biến
mất,
không phai nhạt, trái lại, càng ánh lên
nét riêng long lanh, đặc
sắc.
Nó đã góp cho nền văn hoá nhân
loại
không chỉ
là
trống
đồng
Đông Sơn, Truyện
Kiều,
các làn
điệu
dân ca quan họ...
mà
còn là
những
danh nhân văn
hoá, mà
nổi
bật
là
Hồ
Chí Minh - một
con người,
một
sự
nghiệp,
một
giá trị
văn
hoá vừa
đậm
đà
bản
sắc
Việt
Nam, vừa
chứa
chan tính nhân loại. Và
cả
hai phẩm
chất
ấy
đều
ở
đỉnh
cao.
Phải
với
một
dân tộc
có ý chí tự
lập,
tự
cường
và
là
lòng tự
tôn mãnh liệt mới
sản
sinh ra những áng hùng văn “Nam
quốc
sơn
hà”,
“Bình ngô đại cáo”...
Phải
với
một
dân tộc
rất
tự
hào
với
truyền
thống
văn
hóa của
mình mới
có thể
tuyên thệ:
“Đánh cho để dài
tóc, đánh cho để đen
răng...
đánh cho sử tri Nam quốc
anh hùng chi hữu
chủ”.
Nền
văn
hoá ấy
chính là
khí phách, là tâm hồn dân tộc, là
tài
sản
vô giá của đất
nước
và
của
mỗi
con người
Việt
Nam. Nó là nồi cơm văn hoá Thạch Sanh không bao giờ vơi, là lời ru những đứa con vừa lọt lòng mẹ của dân tộc, là trăm nghìn câu
chuyện
truyền
từ
đời
này
qua đời
khác. Chính nó là
cội
nguồn
sâu lắng
trong mỗi
con người
Việt
Nam dù đến
lúc có dư thừa
các tiện
nghi vật
chất,
nhưng
vẫn
ước
mong được
nghe các làn
điệu
dân ca, được
tắm
hồn
mình trong nền
văn
hoá dân tộc .
Trong nền
văn
hóa có chiều
sâu và
tầm
cao như
vậy,
càng
đi
vào
kinh tế
thị
trường,
mở
rộng
giao lưu
quốc
tế,
đi
vào
công nghiệp
hoá, hiện
đại
hoá, chúng ta càng phải
nâng niu, gìn giữ
và
phát huy để
góp phần
vào
sự
nghiệp
vẻ
vang là
xây dựng
thành
công chủ
nghĩa
xã hội.
Chủ
trương
giữ
gìn và
phát huy bản
sắc
dân tộc
không hề
đồng
nghĩa
với
bảo
thủ,
tự
cô lập,
đóng kín, khư khư bám
giữ
lấy
cái cũ.
Bản
sắc
văn
hoá không phải là
những
giá trị
tạm
thời,
nay còn mai mất; song nó cũng không là cái
không bao giờ
thay đổi
được
và
không cần
sửa
đổi.
Trái lại,
bản
sắc
văn
hóa dân tộc cũng
không ngừng
phát triển,
đổi
mới,
phản
ánh sự
phát triển
và
đổi
mới
của
dân tộc.
Chủ
tịch
Hồ
Chí Minh đã dạy : “Cái gì cũ mà
xấu,
thì phải
bỏ...
Cái gì cũ mà
không xấu,
nhưng
phiền
phức
thì phải
sửa
đổi
lại
cho hợp
lý... Cái gì cũ mà tốt thì phải
phát triển
thêm”. Đó
chính là bản sắc văn hóa Việt
Nam./.
ĐHQ-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét