Đối với nước ta, Điều 4, Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong các kỳ Đại hội, Đảng luôn nhất quán vấn đề này. Đặc biệt, Đại hội XI của Đảng ta đã khẳng định: Việt Nam không cần có đa đảng. Điều khẳng định này hoàn toàn không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của Đảng ta như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, mà dựa trên những cơ sở khoa học cụ thể về cả lý luận và thực tiễn.
Cần
phải nói thêm là thực tế không phải lịch sử Việt Nam chưa từng có chế độ đa
nguyên, đa đảng song chính lịch sử đã sớm phủ định chế độ đó. Nhìn lại lịch sử
dân tộc, đã có thời điểm đa nguyên, đa đảng xuất hiện tại Việt Nam. Năm 1946,
trước yêu cầu cách mạng đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố tự giải tán và mở rộng Chính phủ dân tộc do
Hồ Chủ tịch đứng đầu với sự tham gia của nhiều đảng phái đối lập như Việt Quốc
(Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội),… Nhưng
cùng với dòng chảy của cách mạng, những tổ chức, đảng phái đó kẻ phản động “bán
nước cầu vinh”, người xem nhẹ lợi ích quốc gia, dân tộc nên đã bị chính lịch sử
và nhân dân ta loại bỏ. Khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng
này cũng cuốn gói chạy theo, trên vũ đài chính trị nước ta duy nhất chỉ còn lại
Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối cách
mạng khoa học, đúng đắn đã đại diện quyền lợi của nhân dân lao động, lợi ích
quốc gia, dân tộc. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, một lần nữa lịch sử và
nhân dân lại lựa chọn Đảng ta là lực lượng chính trị có sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Được sự “hà hơi, tiếp sức” của đế quốc Mỹ, nhiều đảng phái đã
được bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thành lập ở miền Nam Việt Nam. Song do mục
đích chính trị của những đảng phái này là phá hoại tổng tuyển cử tự do, thống
nhất nước nhà, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động nên nhân dân ta đã
đoàn kết đấu tranh loại bỏ những đảng phái chính trị đó. Từ sau năm 1975 đến
nay, nền chính trị nhất nguyên với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
được củng cố và phát triển toàn diện một lần nữa đã khẳng định tính tất yếu
khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thể
chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hoàn toàn không đồng nghĩa với
việc mất dân chủ, triệt tiêu dân chủ như các thế lực thù địch đã và đang ra sức
xuyên tạc. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng đều có sự tham gia đóng góp ý kiến của quần
chúng nhân dân, phát huy dân chủ rộng rãi. Đường lối, chủ trương của Đảng luôn
được xây dựng trên cơ sở lắng nghe, tiếp thu ý kiến xây dựng của mọi tổ chức
chính trị - xã hội, của các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Trong quá trình
chuẩn bị cho Đại hội XI, Đảng đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân và nhận được hàng
vạn ý kiến tâm huyết của nhân dân cả nước. Hiện nay, Quốc hội nước ta đang tổ
chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992. Đây chính là những biểu hiện cao nhất, sinh động nhất của việc phát
huy dân chủ xã hội, đề cao quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động.
Cùng
với những mặt trái của nền kinh tế thị trường, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật, nói đúng sự thật”, chúng ta không phủ nhận ở đâu đó trong xã hội vẫn còn
có những biểu hiện thiếu dân chủ nhưng đó chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, là
những thiếu sót, những hạn chế cụ thể trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Không thể xem đó là bản chất của Đảng ta, không thể coi đó là
bản chất của nền dân chủ mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang gắng sức
xây dựng; càng không thể dựa vào những hiện tượng đó để yêu cầu thực hiện chế độ
đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam.
Bài
học về thực thi dân chủ sai nguyên tắc trong quá trình cải tổ ở Liên Xô và các
nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ trước đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ
khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp Liên Xô, đã dẫn đến tình trạng xuất
hiện đa đảng và hậu quả là Ðảng Cộng sản Liên Xô dần đánh mất quyền lãnh đạo.
Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, “công khai hóa” hay “đa nguyên chính trị”
chính là mảnh đất màu mỡ cho các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá,
góp phần làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu nhanh
chóng sụp đổ. Có thể khẳng định, phía sau những luận điệu hô hào đòi “đa
nguyên, đa đảng; đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” không có mục đích gì
khác ngoài những động cơ chính trị đen tối, là mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hơn 30 năm qua đã thu được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”,
làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế, chính trị - xã hội đất nước, nâng cao đời
sống của nhân dân lao động, bảo đảm dân chủ xã hội,… Chính những thành tựu đó
đã một lần nữa khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có vai trò lãnh đạo
cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại cho nhân dân lao động cuộc
sống thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc.
Như
vậy, thể chế nhất nguyên - Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo - ở nước ta
chính là sự chọn lựa đúng đắn của lịch sử. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay với
chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng mà là phải thực hiện tốt
hơn nữa sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đẩy mạnh cuộc
vận động “xây dựng và chỉnh đốn Đảng” gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Trung ương 4 (khóa
XII) và Trung ương 4 (khóa XIII) để củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, xây
dựng Đảng ta “thực sự là đạo đức, là văn minh”./.
HĐQ-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét