Hầu hết những
người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn thường lập luận, thế giới ngày nay đã
phát triển vượt bậc, mọi thứ đều đã khác, hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thay đổi
nhiều đến mức không còn nhận biết được so với hệ thống tư bản chủ nghĩa thời
C.Mác nghiên cứu, do đó chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, tư tưởng của C.Mác
không còn phù hợp! Nhưng những lời chống đối ấy đã cố tình lờ đi sự thật là: Chủ
nghĩa Mác - Lênin là sự phê phán sâu sắc nhất, khoa học nhất đối với những bất
công, bất bình đẳng. Đó là hệ tư tưởng phản biện duy nhất đã và đang làm thay đổi
thế giới theo hướng ngày càng công bằng và tốt đẹp hơn. Cũng có nghĩa, chừng
nào xã hội hiện đại còn có những bế tắc, khủng hoảng thì chừng đó chủ Nghĩa Mác
- Lênin vẫn tồn tại và phát triển cấp tiến hơn. Một điều chắc chắn là các thế hệ
tiếp nối tư tưởng đương nhiên sẽ làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời.
Chúng ta thấy rằng, những điều tưởng như hiển
nhiên trong cuộc sống của loài người hôm nay như: trẻ em được đến trường chứ
không phải đi làm; phụ nữ được giải phóng và bình đẳng với nam giới; người lao
động làm việc 8h một ngày, thời gian rảnh không bị ai quản thúc; y tế được chăm
sóc toàn dân; giáo dục được phổ cập; người nghèo được quan tâm, người có hoàn cảnh
đặc biệt được chia sẻ...tất cả những điều tưởng chừng như hiển nhiên hôm nay
không phải ngẫu nhiên có được mà chính sự thật là nhờ sự thức tỉnh được chỉ ra
từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta phải biết ơn Mác và những nhà
sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi chính họ mang đến, gieo mầm để những sự thật
tốt đẹp đó từng ngày hiển hiện khắp hành tinh.
Khác với tất
cả các học thuyết trước đó hoàn toàn chỉ là nhận thức thế giới, với chủ nghĩa
Mác – Lênin, vấn đề không chỉ có nhận thức, mà điều quan trọng phải là cải tạo
thế giới, nghĩa là làm cho thế giới thay đổi, làm cho thế giới tốt đẹp hơn.
C.Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống tư bản chủ
nghĩa mà ông phản bác. Chính nhờ C.Mác mà loài người có được những khái niệm về
các hình thái lịch sử khác nhau đã song hành hoặc kế tục nhau tồn tại của tư bản:
tư bản thương mại, tư bản nông nghiệp, tư bản công nghiệp, tư bản độc quyền, tư
bản tài chính, đế quốc… C. Mác còn nhìn thấy trước được cái mà giờ đây chúng ta
gọi là “toàn cầu hóa”.
Sự thật là, tại thời điểm C.Mác và Ph.Ăngghen
viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản, ở khắp Châu Âu và Hoa Kỳ, trẻ em từ 5 đến 14 tuổi
phải làm việc phổ biến trong các ngành nông nghiệp, nhà máy, hầm mỏ hay bán báo,
thậm chí phải làm đến 12h/ngày. Tuyên ngôn Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen đã
không khoan nhượng tình trạng ấy, các ông yêu cầu giáo dục miễn phí cho trẻ em
trong các trường học công và xóa bỏ bóc lột trẻ em trong các nhà máy. Các nhà
sáng lập Chủ nghĩa Mác đã khởi xướng và bắt nhịp cho dàn đồng ca khắp thế giới
để ngăn chặn chấp dứt lao động trẻ em và đưa trẻ đến trường. Cũng chính ở thời
điểm đó, người phụ nữ ở Mỹ và các nước Châu Âu vốn có địa vị thấp kém hơn so với
đàn ông, họ bị coi như nô lệ trong gia đình, thậm chí bị coi như là một món món
hàng để giới tư sản mua bán, trao đổi, quyền công dân của họ bị tước bỏ, không
được bỏ phiếu bầu cử và cũng chẳng được tham gia bất cứ hoạt động chính trị
nào. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tố cáo gay gắt sự bất công ấy, nhưng quan trong
hơn, các ông không chỉ vách trần nguồn gốc sự bóc lột tư bản đối với nữ giới mà
còn chỉ ra con đường giải phong phụ nữ thành công. Đó là một tầm cao mà tại thời
điểm đó tư tưởng nhân loại chưa thể vươn tới.
Đối với nhân
loại cần lao, quyền bình đẳng là cái mà họ phải phấn đấu đấu tranh cả đời, nên
ai ai cũng rất hiểu và thấm thía. Khi ấy giới tư bản chỉ tập trung làm giầu
trong một số ít giai cấp tư sản, còn đại bộ phận nhân dân không được bảo vệ trước
áp bức, bất công. Nơi nào có áp bức tất yếu nơi đó có đấu tranh. Dự báo của
C.Mác về việc đấu tranh rút ngăn thời gian lao động từ 14, 15h/ngày xuống còn
8h/ngày trở thành mục tiêu quan trọng được tuyên bố trong Quốc tế Cộng sản I,
sau này tiếp tục được nêu trong Quốc tế Cộng sản II để rồi từ ngày 1/5/1890, Quốc
tế lao động đầu tiên ra đời với quy mô toàn thế giới cùng hiệp lực, cùng đấu
tranh đã biến ngày làm 8h thành hiện thực.
Có lẽ chính bởi
sự vạch trần và phê phán gay gắt, quyết liệt đến tận cốt tử về bản chất của
CNTB nên CNTB trở lên thù hận Chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí họ còn ngông cuồng
coi đó như là một bóng ma cần phải trừ khử. Thế nhưng chính sự phê phán của Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã khiến CNTB tự biến đổi, tự sửa chữa những sai lầm của mình
như, xây dựng các nhà nước phúc lợi hay tìm cách thu hẹp khoảng cách giầu nghèo
nhằm điều hòa mâu thuẫn xã hội, mâu thuấn giai cấp. Thực tế CNTB không phải đi
từ tờ giấy trắng để có sự tốt đẹp. Để có thành tựu hôm nay, CNTB đã để lại trên
con đường đi của mình biết bao mồ hôi, xương máu của con người. Biết bao người
da đen, da đỏ, da vàng đã phải bị giết chóc, tù đầy, biết bao người lao động đã
bị hành hạ, bóc lột đến tận xương tủy…để họ xây dựng chế độ như ngày nay?
Jacques
Derrida, một nhà triết học người Pháp viết trong tác phẩm “Những bóng ma của
Mác” cho rằng: "con người trong xã hội hiện đại, dù là những người theo Chủ
nghĩa Mác - Lênin hay những người phê phán C.Mác cũng gắn chặt với C.Mác. Sẽ
không thể có tương lai nếu không có các di sản của C.Mác". Ông khẳng định:
“cần phải trở về với Mác để chống lại cái "trật tự thế giới mới" của
thị trường tư bản chủ nghĩa”. Còn Tery Eagleton, giáo sư Trường Đại học Tổng hợp
Lancaste Vương quốc Anh thì viết trong cuốn “Vì sao Mác đúng?” rằng: "Chủ
nghĩa Mác giống như bác sỹ, khi mà cơ thể khỏe mạnh sẽ không để ý, song một khi
CNTB gặp vấn đề nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn
có của mình. Chính Mác đã thúc đẩy những thay đỏi tích cực của các nước tư bản".
Đối với các đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng dân chủ xã hội và loài người tiến
bộ, hàng tỉ người trên khắp thế giới vẫn khẳng định học thuyết của C.Mác có giá
trị thời đại, vững bền.
Linh hồn và sự
sống của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là phương pháp luận, những đòi hỏi đổi mới
và sáng tạo không ngừng. Nhưng nguyên lý này không chỉ đúng trong thế kỷ trước,
trong thế kỷ này mà còn đúng cho những thế kỷ sau, vì đó là những quy luật
khách quan. Một số người chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ tập trung phê phán
3 người sáng lập C.Mác, Ph.Ăngghen, VI. Lênin mà tách rời tư tưởng hoặc tìm
cách đối lập tư tưởng của họ với những người tiếp nối về sau. Họ cố tình lời đi
sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hơn một thế kỷ qua mà chỉ nhằm
vào mục tiêu chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, giáo điều, hay xa rời
thực tiễn. Cách suy luận siêu hình đó tất yếu sai lầm. Tiếp nối C.Mác, VI.Lênin
khắp thế giới có nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất. Ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam mà còn
cống hiến, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên những tư tưởng tầm vóc lịch
sử, những cuộc cách mạng chấn động địa cầu, đẩy lùi chiến tranh xâm lược của Đế
quốc, thực dân, những nô dịch, áp bức, bất công để thiết lập lên nền tảng của
cuộc sống độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Tiếp sau Hồ Chí
Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công hơn 30 năm đổi mới tạo ra sự
biến đổi về chất, từ một đất nước bị bóc lột, tàn phá đến quyệt quệ, bị cô lập,
chống phá quyết liệt sau chiến tranh thành quốc gia tự tin hội nhập cùng thế giới.
Bởi vậy, chính sự nối tiếp một cách biện chứng và bản chất sáng tạo, luôn phát
triển của mình làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời hay lạc hậu.
Sức sống của
chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ bởi tính lôgic, khoa học mà còn tính nhân văn,
nhân bản trong mục tiêu, đích đến. Giá trị thời đại trong chủ nghĩa Mác chính
là sự hiện tồn những giá trị tốt đẹp của CNXH. CNXH liệu có xa xôi đến mức
không tưởng? Thực ra không cần tìm kiếm đâu xa, chỉ nhìn rất gần xung quanh chúng
ta, rất nhiều người dù thành đạt hay chưa thành đạt lắm vẫn dành thời gian đều
đặn tham gia nấu những bữa cơm cho người bệnh, vui vẻ chung tay xây dựng những
chương trình từ thiện, lo những xuất ăn cho người nghèo… Dù là chủ doanh nghiệp
hay cán bộ, nhân viên, thỉnh thoảnh lại chi ra một số tiền cho hoạt động thiện
nguyện và trực tiếp thực hiện những chương trình của mình. Không những thế, họ
rất chu đáo, tậo tâm với công việc này, vẫn quan tâm chi sẽ nỗi lo, niềm vui vì
lợi ích của người khác, cho dù thế giới đang khủng hoảng tài chính hay nền kinh
tế gặp khó khăn.
V.I.Lênin gọi
những người quan tâm đến lợi ích của những người bà con xa là những người của
CNXH. Ở Việt Nam, sự tự nguyện, tự giác chăm lo cho người khác ngày càng được
nhân lên nhiều mô hình phong phú: những phụ nữ làm tủ bánh mì miễn phía cho người
cơ nhỡ; những người đàn ông bơm, vá xe miễn phí cho sinh viên, người lao động
nghèo; góc đường phố có bình nước mát miễn phí ai đó đặt... Trong kinh tế thị
trường ai cũng vất vả kiếm sống không dễ, nhưng chia sẻ với nhau bằng tấm lòng
vị tha, nhân ái thì không phải là xã hội nào cũng có. Họ có lẽ chưa hiểu đầy đủ
về CNXH, CNCS nhưng họ đã có hành động như vậy đấy.
CNXH không phải
là sản phẩm của C.Mác, của Ph.Ăngghen, của VI.Lênin. Ngay từ thế kỷ VII, VIII, các nhà tư tưởng ở
phương Đông đã mơ về một xã hội không còn người lầm than, không còn người lê la
ở nơi hang cùng, xóm vắng nữa. Thuật ngữ CNXH đã bắt đầu xuất hiện trước lúc
C.Mác sinh ra hơn 100 năm. Có điều, làm thế nào để xây dựng được một xã hội như
vậy thì các nhà tư tưởng lúc đó chưa tìm ra được con đường, thế cho nên người
ta gọi CNXH không tưởng. Chỉ đến khi C.Mác và Ph.Ăngghen phát hiện ra cơ sở lịch
sử để thực hiện lý tưởng XHCN thì CNXH mới không còn là một “bóng ma”. Các ông
đã tìm thấy ở đó lực lượng, điều kiện mà những người trước đó không tìm thấy. Với
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản 1848, CNXH được khẳng định là một thực thể, một sự tồn
tại có thật và đang lớn lên từng ngày, trở thành lực lượng khuynh đảo thế giới,
cân bằng lại thế giới đang trong thời của bờ vực rạn vỡ.
CNXH mới được
hơn 100 năm kể Cách mạng tháng Mười. Nếu nhìn rộng ra CNTB có tận 500 năm lịch
sử. Thế nên nếu chỉ nhìn vào sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu những năm
90 mà vội kêu lên CNXH đã cáo chung thì hoàn toàn sai lầm. CNXH là chủ nghĩa cộng
đồng, tư tưởng cộng đồng không dễ gì bác bỏ, tiêu vong được. Nhân loại đã đi
qua rất nhiều chặng đường và lịch sử của CNXH cũng đã trải qua những bước thăng
trầm tất yếu với 4 lần khủng hoảng, điều đó cho thấy sức sống của một lý tưởng
không hề bằng phẳng. Các thế lực thù địch công kích nó đã đành, nội tại bản
thân nó cũng phải đấu tranh để tồn tại và phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “CNCS không phải là một lý tưởng hay
một khuân mẫu để chạy theo. Đối với chúng tôi CNCS là sự vận động của đời sống
hiện thực”. Con đường đi lên CNXH sẽ không bằng phẳng mà còn rất nhiều gập ghềnh,
thử thách, thậm chí phải trả giá bởi những thất bại tạm thời, bởi đó không phải
con đường có sẵn, mà muốn đi lên phải tìm tòi, thử nghiệm, điều chỉ, sửa chữa,
đục kết, hoàn thiện… Để có một chế độ xã hội tốt đẹp phải trải qua quá trình
xây dựng. Đó là con đường tất yếu mà xã hội nào cũng phải trải qua. CNXH mà Hồ
Chí Minh quan niệm là độc lập, tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Một nước XHCH tức là một nước có cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc
lập. Ba mục tiêu mà chúng ta hướng tới đó là độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là
mục tiêu sống còn, là đích đến cuối cùng mà chúng ta xây dựng. Lựa chọn con đường
nào để đi đến chân trời tươi sáng là quyền của mỗi quốc gia, dân tộc. Người ta
có thể nghi ngờ, nhưng rõ ràng ở Việt Nam hiện nay phát triển theo CNXH là con
đường duy nhất đúng. Để đạt được mục tiêu ấy con đường đi lên của chúng ta
không phải là con đường tư bản đã đi, mà là đi theo con đường XHCN. Một đất nước
ổn định về chính trị, yên bình về xã hội, an toàn về quốc phòng an ninh để phát
triển kinh tế, thu hút đầu tư phải là một nước Việt Nam của con người CNXH. Khi
đất nước đã bước qua những năm tháng chiến tranh đói khổ, trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, CNXH ở Việt Nam tiến lên một bước mới: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thế giới đã đổi
thay, thế nhưng thực tiễn xã hội cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ vẫn không đưa ra được bằng chứng xác thực nào để bác bỏ nguyên lý căn
bản của triết học Mác - Lênin. Hơn thế, đi ngược về các cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu trong thế kỷ này, tức là trên dưới 150 năm học thuyết Mác ra đời người
ta buộc phải tìm lại giá trị Mác để tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng đương
thời, bởi Mác đã mô tả hoàn toàn chính xác về quy luật phát triển của CNTB. Cho
đến hôm nay, chính nội tại của các nước Tư bản, đằng sau sự hào nhoáng thì con
người phải đối diện với những bất an, bất lực, phân biệt chủng tộc, khoảng cách
giầu nghèo, xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn chính trị xã hội. Và cũng
chính ở đó, sự an hòa, yên bình, người với người sẻ chia của xã hội XHCN lại là
những chân trời mà nhân loại khao khát vươn tới.
Hơn 100 năm
qua tư tưởng của các nhà kinh điển đã vượt qua thử thách của thời đại cũng như
sự công kích, chống phá của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, bất chấp mội công
kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai
trò trong thời đại mới. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với tư tưởng Mác
ngày càng tăng như một đơn đặt hàng của lịch sử./.
NĐV-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét