Không ai khác và hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người có tình cảm đặc biệt với V.I.Lênin và chủ nghĩa Lênin. Từ lòng
kính trọng và biết ơn vô hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học tập, nghiên cứu và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đấu tranh
giành độc lập dân tộc và mở ra thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Tình cảm đặc biệt của Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ cộng sản mẫu
mực với V.I.Lênin - Lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Từ
một người yêu nước, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tư tưởng cứu nước và giải phóng dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
có những đánh giá đầy đủ, đúng đắn về những cống hiến xuất sắc của Lênin đối với
cách mạng thế giới và cách mạng thuộc địa. Người chỉ rõ, Lênin là người được
kính trọng ở cả phương Đông và phương Tây: “Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi
Lênin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông
lại coi Lênin là một người con vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa”(1). Thiên tài
và đạo đức cách mạng vĩ đại, cao đẹp của Lênin ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc
châu Á, làm cho trái tim, khối óc của nhân dân châu Á hướng về Người không gì
cưỡng lại nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo chỉ dẫn
của Lênin; vì vậy, Người khẳngđịnh: “Khi còn sống, Người là người cha, thầy học,
đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho
chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội”(2).
Trong
hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, mặc dù chưa có cơ hội trực tiếp
gặp V.I.Lênin, nhưng khi được tiếp xúc với học thuyết của V.I.Lênin về vấn đề
giải phóng thuộc địa từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tuyệt đối
tin tưởng và đi theo con đường cách mạng do V.I.Lênin lãnh đạo, Người đã ủng hộ
Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập năm 1919. Ðồng thời, ca ngợi thiên tài,
tấm gương đạo đức cách mạng cao cả của V.I.Lênin và ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam. Tình cảm đặc biệt ấy, được Nguyễn Ái Quốc thể hiện
sâu sắc trong bài viết “Lênin và các dân tộc thuộc địa” trên Báo Pravđa, tiếng
Nga, ngày 27-1-1924: “"Lênin đã mất!". Tin này đến với mọi người như
sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên phì nhiêu ở châu Phi và các
cánh đồng xanh tươi ở châu Á. Đúng, những người da đen và da vàng có thể chưa
biết rõ Lênin là ai, nước Nga ở đâu. Bọn đế quốc thực dân cố ý bưng bít không
cho họ biết…Nhưng tất cả họ, từ những người nông dân An Nam đến người dân săn bắn
trong các rừng Đahômây, cũng đã thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một
dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lý lấy đất nước
mình mà không cần tới bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước
đó gọi là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là
Lênin. Chỉ như thế cũng đủ làm cho họ ngưỡng mộ sâu sắc và đầy nhiệt tình đối với
nước đó và lãnh tụ của nước đó. Nhưng không phải chỉ có thế. Họ còn được biết rằng
người lãnh tụ vĩ đại này sau khi giải phóng nhân dân mình, còn muốn giải phóng
các dân tộc khác nữa”(3).
Hồ
Chí Minh ca ngợi phẩm chất sáng ngời của vị lãnh tụ của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế với những tình cảm sâu sắc nhất với niềm tiếc thương vô hạn
khi V.I.Lênin từ trần: “Từ bao thế kỷ nay, bao nhiêu triệu con người đã bị xiềng
xích như thế?... Trong lúc cuộc chiến tranh thế giới đang diễn ra ác liệt,
trong lúc hàng triệu người không làm hại đến ai, đang muốn sống, nhưng lại bị
đưa vào chỗ chết, Lênin đã đạp bằng gian khổ và khó khăn, đã thức tỉnh giai cấp
vô sản Nga nổi dậy, đã tổ chức các xôviết. Lênin không những chỉ giải phóng nam
giới và nữ giới trên đất nước Tiên sinh, mà còn chỉ đường cho tất cả những người
nghèo khổ trên thế giới. Và bất chấp bọn bạch vệ tấn công ở bên trong, bọn tư bản
bao vây ở bên ngoài, ý chí kiên cường của Lênin đã cứu đồng bào của Tiên sinh
ra khỏi cảnh đau khổ và lầm than, và đã nêu cao ngọn cờ của Quốc tế cho tất cả
những người bị áp bức. Điều đó há chẳng đáng để ta kính cẩn mặc niệm trước anh
linh vĩ đại của Tiên sinh hay sao? Ngày 21 tháng 1 há chẳng mãi mãi là một ngày
tang cho tất cả những nam nữ đang chịu khổ cực hay sao?”(4).
Với
tình cảm cách mạng trong sáng, trong bài “Kỷ niệm Lênin” trên báo Nhân dân, số
91, từ ngày 15 đến ngày 21-1-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng chí
Lênin ra đời ngày 22-4-1870, mất ngày 21-1-1924. Thọ 54 tuổi. Suốt 25 năm, đồng
chí Lênin là người tổ chức và lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga, đội tiên phong đã đưa
giai cấp vô sản Nga đến cách mạng thắng lợi, đồng thời cũng là người lãnh đạo
giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới. Đồng chí Lênin là người
đã phát triển và đã thực hiện chủ nghĩa Mác và Ăngghen, là người đã dạy bảo
chúng ta đường lối cách mạng chắc chắn thắng lợi. Trong bài vắn tắt này, không
thể kể hết đạo đức và công ơn như trời như bể của đồng chí Lênin”(5).
Chủ
nghĩa Lênin - Cẩm nang “thần kỳ” của cách mạng Việt Nam
Nguyễn
Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin là một cuộc gặp lịch sử. Với quyết tâm tìm con
đường cứu nước, sau bao năm bôn ba khắp các châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa
hoạt động trong phong trào các dân tộc bị áp bức, phong trào công nhân, tháng 7
năm 1920, trên những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin, đăng trên báo Nhân Ðạo (L’Humanité) của Ðảng Xã hội Pháp. Hồi tưởng giây
phút trọng đại đó, trong tác phẩm “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Người
viết: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc
lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin
làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó tôi hoàn toàn
tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(6).
Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh vui mừng như vậy vì đã tìm thấy con đường duy nhất để cứu
nước, cứu dân, con đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp và chế độ phong kiến - đó là con đường cách mạng
vô sản. Tại Ðại hội Tua của Ðảng Xã hội Pháp cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã
tham gia sáng lập Ðảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên.Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng
ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang”
thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản”(7). Sau đó, khi “Trả lời phỏng vấn của Sáclơ Phuốcniô, phóng viên báo
L'humanité (Pháp), ngày 15-7-1969, Người tiếp tục khẳng định lại: “Hỏi: Vậy nên
gợi lại như thế nào vai trò của Lênin và chủ nghĩa Lênin đối với đồng chí? Trả
lời: Đồng chí biết truyền thuyết của chúng tôi về cái “cẩm nang”. Khi gặp khó
khăn, người ta giở cẩm nang ra và tìm thấy cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin
cũng gần như cái cẩm nang thần kỳ đó. Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước
mà tôi tin theo Lênin. Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân toàn thế giới”(8).
Hướng
về Lênin - lãnh tụ của Cách mạng Tháng Mười Nga với chủ nghĩa Lênin mà theo Người
đó là “chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và
cách mạng vô sản”(9), từ cuối năm 1923, đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến
Liên Xô học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Lênin để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Kế tục truyền thống chí khí và tự tôn của ông cha, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
chí ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Trong những năm tháng học tập, hoạt động,
nghiên cứu trên đất nước Xô-viết, Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm xuất sắc về
Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười. Ðặc biệt, vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã cho
xuất bản cuốn sách “Ðường cách mệnh” làm tài liệu huấn luyện cán bộ để chuẩn bị
cho việc thành lập Ðảng. Bằng những cứ liệu lịch sử và sự phân tích sâu sắc,
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước thuộc
địa thấy rằng công cuộc đấu tranh giải phóng trong thời đại mới không thể đi
theo con đường cách mạng tư sản, vì đó là “cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức
thuộc địa”(10). Người chỉ rõ, để làm cách mạng thắng lợi, điều kiện hàng đầu là
phải có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, “để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam”. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”(11). Nguyễn Ái Quốc kết luận: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng
vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo
chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(12).
Với
tư duy sắc bén, vừa có tính biện chứng, vừa có tính thực tiễn sâu sắc, Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam và giành được những thắng lợi to lớn; vì vậy, Người khẳng định: “Về phần
chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng
một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến
đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi giành
được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không
phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những
thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa
Mác - Lênin”(13). Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Lênin và công cuộc giải phóng các
dân tộc bị áp bức”, Người tiếp tục nhấn mạnh: “Từ trong học thuyết dạt dào sức
sống của chủ nghĩa Lênin, chúng tôi khơi nguồn sức mạnh để giành thắng lợi cho
sự nghiệp thiêng liêng là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, để giành thắng
lợi cho chủ nghĩa xã hội!”(14).
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước nhà độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết
nhiều tác phẩm về Lênin để giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân ta luôn ghi nhớ
công ơn và học tập, vận dụng học thuyết cách mạng của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, học tập kinh nghiệm của nhân dân các dân tộc Xô-viết trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.Vấn đề cốt tử nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục Ðảng và
toàn dân ta là chăm lo xây dựng Ðảng thật sự là một đảng Mác - Lê-nin chân
chính. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phấn đấu hy sinh vì lợi ích của nhân dân,
mà V.I.Lênin là tấm gương tiêu biểu để Ðảng xứng đáng là “trí tuệ, lương tâm,
danh dự” của dân tộc và thời đại, được nhân dân tin yêu… Tinh thần đó được Người
chỉ rõ khi dẫn lại Xtalin trong tác phẩm “Cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của
người cách mạng”, đó là: “Diễn thuyết trong cuộc tuyển cử Xô-viết Tối cao, đồng
chí Xtalin nói: “Các cử tri và nhân dân cần yêu cầu những đại biểu của mình trước
sau họ phải làm tròn nhiệm vụ của họ; trong công tác họ không được thoái hoá
thành người chính trị xoàng; yêu cầu họ trước sau xứng đáng là nhà chính trị
theo kiểu Lênin. Yêu cầu họ thành những người rành rõ và đứng đắn như Lênin.
“Yêu
cầu họ cũng như Lênin gan góc chiến đấu và đối phó với kẻ địch của nhân dân
không nể nang. Yêu cầu họ khi gặp bước gian nan, thấy sự nguy hiểm, như Lênin
không sợ sệt hoặc có tâm lý sợ sệt”.
“Yêu
cầu họ, như Lênin, sáng suốt, bình tĩnh; khi giải quyết những vấn đề phức tạp,
xem xét mọi mặt, cân nhắc cẩn thận. Yêu cầu họ trung thành, trong sạch như
Lênin. Yêu cầu họ thương mến nhân dân, như Lênin”.
Học
tập Lênin nói một cách giản đơn là như thế. Tu dưỡng, tức là học Lênin như thế”(15).
Người
còn chỉ rõ thêm:
“Đảng
viên ta tuy không có tài cao học rộng như Mác, Ăngghen, Lênin, Xtalin. Nhưng
chúng ta chỉ cốt có quyết tâm, trước sau quyết giữ vững địa vị chiến sĩ tiên
phong của vô sản, xem xét nhân sinh và thế giới theo đúng chủ nghĩa cách mạng,
trước sau không rời công tác cách mạng của giai cấp vô sản, ra sức rèn luyện và
tu dưỡng - như vậy thì nhất định có thể nâng cao tư cách của mình đến chỗ:
Sáng
suốt và bình tĩnh,
Gan
góc đấu tranh, không nể nang đối với kẻ địch của dân,
Gặp
lúc khó khăn, không sợ sệt hoặc có tâm lý sợ sệt,
Trung
thành, trong sạch,
Yêu
mến nhân dân, như Mác, Ăngghen, Lênin, Xtalin vậy.
Đồng
thời, áp dụng phương pháp và thái độ Mác - Lênin mà giải quyết các vấn đề phức
tạp, xem xét cân nhắc kỹ càng các vấn đề.
Nói
tóm lại: Chỉ cốt chúng ta quyết tâm ra sức học tập, rèn luyện và tu dưỡng,
không rời xa công tác cách mạng thiết thực của quần chúng, thì chúng ta nhất định
nâng cao tư cách của mình đến trình độ những nhà chính trị theo kiểu Mác -
Lênin”(16).
Ðảng
ta, nhân dân tự hào khẳng định rằng, trong gần 9 thập kỷ qua, đi theo con đường
cách mạng của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta đã phát triển và làm phong
phú lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn lãnh đạo cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó chính là
giá trị vĩnh hằng của Chủ nghĩa Lênin không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà
còn là của cách mạng thế giới và loài người tiến bộ, đúng như kết luận của Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm “Chủ nghĩa Lênin vĩ đại muôn năm!”: “Kết
luận: Chủ nghĩa Lênin vĩ đại đã đưa lịch sử loài người lên giai đoạn mới - giai
đoạn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(17)./.
NTP-H8
----------------------------
(1),
(2), (3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr.317; tr.257; tr.256; tr.289
(5)
Sđd, tập 8, tr.12
(6),
(7)Sđd, tập 12, tr.562; tr.563
(8),
(13) Sđd, tập 15, tr.588; tr.589-590
(9)
Sđd, tập 7, tr.581
(10),
(11), (12) Sđd, tập 2, tr.296; tr.289; tr.304
(14)
Sđd, tập 9, tr.415
(15),
(16) Sđd, tập 6, tr.296-297; tr.297
(17)
Sđd, tập 13, tr.384.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét