Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
“nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần
tử khác yêu nước khác”, là tất cả các dân tộc anh em sống
trên đất nước Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài. Đối với
Người, “dân” là “đồng bào” với tất cả sự thân thương, tha thiết nhất
của những người cùng dòng máu con Lạc cháu Hồng. Trong các buổi nói
chuyện, những bài viết và trong các bức thư gửi nhân dân, Người luôn
dùng từ “đồng bào” khi nói đến nhân dân, như một phương thức
truyền tải tình yêu thương, tinh thần đoàn kết dân tộc.
Nhân dân là lực lượng có sức
mạnh to lớn, có vai trò quyết định trong mọi vấn đề chính trị, xã hội của
đất nước, vì thế dân là gốc của mọi công việc. Với truyền thống
yêu nước, anh dũng, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, nhân dân ta chính là
nguồn vốn quý giá nhất làm nên thành công của sự nghiệp cách
mạng. Hiểu dân, tin dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ,
dân rất tốt, rất thông minh, dân có thể “giải quyết nhiều vấn đề một cách
đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể
to lớn, nghĩ mãi không ra” và “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”. Nói về sức mạnh của nhân dân, Người chỉ rõ: “Khi
nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công
ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”; lòng dân là “vận nước”
bởi vì “được lòng dân, thì việc gì cũng làm được Trái ý dân, thì chạy ngược
chạy xuôi”. Với những quan niệm đúng đắn, toàn diện về nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định “dân là gốc”. Người nói: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc
có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Nhân dân là chủ thể của xã hội,
cách mạng là sự nghiệp của nhân dân và mọi thành quả của cách
mạng đều phải vì dân, phục vụ dân. Cả cuộc đời cống hiến, hy
sinh vì dân, vì nước, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm và giáo dục cán bộ, đảng viên
phải nhận thức sâu sắc rằng, “lấy dân làm gốc” nghĩa là nhân dân
chính là chủ thể cách mạng, mục tiêu cách mạng là vì nhân dân và
sự nghiệp cách mạng thực chất là sự nghiệp là của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải gần dân, dựa vào dân, vì dân, trọng dân, yêu dân, học dân và
trung thực với dân. Người chỉ rõ: “Dân là gốc”, là lực lượng cách
mạng cơ bản và quan trọng nhất, cho nên cán bộ, đảng viên cần “phải từ
trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, tức là phải gần dân,
lắng nghe, đồng cảm, thấu hiểu dân, từ đó mới có quyết sách phù hợp với
nhu cầu, mong mỏi của nhân dân. Người cán bộ, đảng viên phải đồng hành
với dân, vì lợi ích của dân mà hành động, sẵn sàng hy sinh lợi ích
bản thân vì nhân dân. Đây cũng là cách tốt nhất, hiệu quả nhất
để dân tin, yêu và ủng hộ cán bộ, ủng hộ Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh,
“lấy dân làm gốc” không chỉ là một nguyên tắc hành động mà
còn là một mệnh lệnh tối thượng đối với cán bộ, đảng viên, bởi
vì: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện
của dân thì ắt bại”. Người nêu rõ: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần
chúng mà phải làm đày tớ cho quần chúng”. Theo Người, làm “đầy tớ” cho dân
nghĩa là phục vụ dân, dốc lòng vì lợi ích của dân, làm cho dân được
ấm no, hạnh phúc, làm cho dân hài lòng…
Tham nhũng là tệ nạn vô cùng nguy hiểm
cho xã hội. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ tác hại của tham nhũng: “Trộm cắp tiền
bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu
không phải là tệ hơn nữa”. Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ
đối với sự tồn vong của chế độ, vì vậy, chống tham nhũng trở thành một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong cuộc chiến chống tham nhũng hiện nay,
quan điểm “dân là gốc” của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự,
thể hiện ở những điểm sau:
Một là, với tư cách là người
chủ của xã hội, nhân dân tích cực tham gia công tác kiểm tra, giám sát, góp phần
quan trọng trong việc phát hiện ra các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực. Thực tế
trong thời gian qua, nhiều vụ án tham nhũng lớn được phanh phui bắt
đầu từ những thông tin do nhân dân cung cấp, tố cáo. Các cơ quan chức
năng đều phải dựa vào “tai mắt” nhân dân, thu thập thông tin, chứng
cứ để chứng minh các hành vi phạm tội của đối tượng vi phạm
pháp luật. Nhân dân chính là lực lượng giám sát đông đảo, hiệu quả
nhất đối với những hành vi sai trái của cán bộ, đảng viên.
Hai là, nhân dân tích cực tham
gia phản biện xã hội về những vấn đề có liên quan đến công cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Đó là tham gia góp ý kiến với Đảng và Nhà nước
về hoạch định chủ trương, xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật
về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến về nhân sự tham gia các vị trí
lãnh đạo, quản lý các cấp trong tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan nhà
nước; giám sát, phản biện hoạt động của các cơ quan công
quyền trong việc quản lý tài sản công, quản lý và sử dụng đất
đai, tài nguyên, khoáng sản... Đây vừa là hoạt động thể hiện quyền
dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chính là hoạt động thể hiện vai
trò và trách nhiệm của người dân trong công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực theo đúng tinh thần “dân là gốc”.
Ba là, ý kiến của đông đảo nhân
dân tạo thành dư luận xã hội lên án và đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Dư luận xã hội góp phần quan trọng trong việc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, khi cung cấp thông tin tham nhũng,
tiêu cực cho các cơ quan pháp luật và báo chí vào cuộc; tạo áp
lực xã hội làm cho những người có trách nhiệm và các cơ quan
hữu quan phải chú ý, để tâm, chỉ đạo, tiến hành làm rõ vụ, việc để
trả lời trước công luận. Dư luận xã hội tác động mạnh mẽ đến
tâm lý con người, tạo khả năng răn đe, cảnh tỉnh, để những người “đang
muốn tham” phải chùn tay “không dám tham”.
Khẳng định vai trò của nhân dân
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, tại Hội
nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai
đoạn 2012 - 2022, ngày 30-6-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Cuộc
chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta phải dựa vào dân, lắng
nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc, tiếp thu cái đúng”.
Để dựa vào nhân dân, lấy
“dân là gốc” trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay,
cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức
về vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác phòng, chống tham
nhũng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng để nhân dân hiểu rõ
quyền và trách nhiệm của mình, có thái độ đấu tranh không
khoan nhượng với “giặc nội xâm” này, từ đó tích cực tham gia giám
sát, phát hiện, thông tin, phản ánh, tố giác hành vi tham nhũng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm
cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng
triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi
sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.
Cung cấp thông tin, định hướng để hình
thành dư luận xã hội mang tính tích cực, tạo cơ hội, diễn đàn cho người
dân dễ dàng và chủ động tham gia bình luận, nhận xét, góp ý
mang tính xây dựng, góp phần phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho
hạt nhân tích cực trong quần chúng nhân dân (già làng, trưởng bản,
người có uy tín trong cộng đồng…) để tăng cường tính tích cực của họ
trong việc phát hiện, tố cáo tham nhũng.
Thứ hai, củng cố, hoàn thiện cơ
chế, cơ sở pháp lý thực hành dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tham gia quá trình phản biện xã hội thực chất, hiệu
quả. Bảo đảm quyền dân chủ tức là người dân được cung cấp thông tin
đầy đủ, chính xác, kịp thời (dân biết), người dân được trực
tiếp theo dõi, giám sát các quá trình quản lý xã hội (dân kiểm
tra) để kịp thời phát hiện những hành vi tiêu cực của cán bộ,
đảng viên, giúp các cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng những sai phạm,
phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời hành vi tham nhũng. Đại hội XIII
của Đảng khẳng định, phải thực hiện tốt phương châm: “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét