Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc
phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực,
vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự cường
và từng bước hiện đại. Nền quốc phòng toàn dân bao gồm tổng thể các hoạt động về
chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học,... của Đảng, Nhà nước
và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh
quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng khi xảy ra chiến tranh; góp phần bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ nền hòa
bình bền vững của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới. Nội dung cốt lõi của xây dựng nền quốc phòng toàn
dân bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng
toàn dân.
Từ nhận thức về nền quốc phòng toàn
dân và nghiên cứu Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, có một số điểm mới trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và mục tiêu, lộ trình hiện đại hóa Quân đội nhân
dân Việt Nam đến năm 2030 là:
Thứ nhất, phát triển mới trong tư duy
và nhận thức về xây dựng tiềm lực quốc phòng.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng là chủ
trương, chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, nhằm huy động kịp thời mọi nguồn lực
về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước nhằm tăng
cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cả ở thời bình và thời chiến.
Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ tiềm lực chính trị,
tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực khoa học - công nghệ và tiềm lực
quân sự trong một thể thống nhất với nhiều giải pháp sáng tạo, đồng bộ để xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Liên quan đến xây dựng tiềm lực quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng có những phát
triển mới về nhận thức và tư duy:
Một là, coi trọng và nhấn mạnh việc
xây dựng “thế trận lòng dân” trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần. Xây
dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thành tố cơ bản, quan trọng nhất của tiềm
lực quốc phòng được đặt ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ hữu cơ, chi phối
hiệu quả đối với các tiềm lực khác. Trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần,
nội dung trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng lòng tin của
các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, tạo sự đồng thuận,
chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Để xây dựng tiềm lực chính trị - tinh
thần, đòi hỏi phải kế thừa những giá trị đã đạt được trong thời gian qua, đồng
thời có sự vận dụng, phát triển phù hợp trong điều kiện mới. Đó là phát huy các
giá trị về lòng yêu nước, ý chí, niềm tin, truyền thống lịch sử, văn hóa,...
trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường,
điều kiện thế và lực của đất nước được tăng cường; hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá...
Hai là, xác định và mở rộng nguồn
lực xây dựng tiềm lực kinh tế thuộc tiềm lực quốc phòng. Xây dựng tiềm lực
kinh tế thuộc tiềm lực quốc phòng bao gồm xây dựng các khả năng nguồn lực của nền
kinh tế có thể huy động cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, đặc biệt là trong xử
lý các tình huống quốc phòng, quân sự ngay từ thời bình hoặc tiến hành chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế thuộc tiềm
lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại
hội XII của Đảng xác định: cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Đại
hội XIII của Đảng cụ thể hóa, bổ sung và phát triển nguồn lực, đó là: Có
cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực
quốc phòng, an ninh... Đây là thể hiện tư duy mới của Đảng, tạo ra cơ chế mở để
phát huy cao nhất các “nguồn lực xã hội” nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp,
bảo đảm tốt nhất cho xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh trong bối cảnh đất
nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ hai, phát triển mới trong tư duy
và nhận thức về xây dựng lực lượng quốc phòng.
Nền quốc phòng Việt Nam dựa vào sức mạnh
toàn dân, toàn diện của lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Lực
lượng toàn dân gồm các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; là lực lượng đông
đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất của quốc
phòng. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân tự vệ, là nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn
nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng với mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam tinh, gọn, mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và lực lượng
dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh. Về nhiệm vụ xây dựng lực lượng
quốc phòng, tại Ðại hội XII, Đảng ta mới chỉ xác định: “ưu tiên hiện đại hóa một
số quân chủng, binh chủng, lực lượng” nhưng đến Ðại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ,
phải xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại:
“xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện
đại”.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều
lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ và thách thức
đan xen đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ
khí, trang bị, kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ
chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Đặc biệt, sự ra đời
của hình thái chiến tranh mạng, chiến tranh vũ trụ, vai trò của trí tuệ nhân tạo,
phương tiện tự hành thế hệ mới... đã tác động sâu sắc đến quốc phòng, an
ninh thế giới, khu vực và mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam,
đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam phải có những lực lượng hiện đại để sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược.
Ðại hội XIII của Ðảng cũng tiếp tục khẳng
định, nhấn mạnh và đặt ra yêu cầu phải xây dựng Quân đội nhân dân “vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội... tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Ðảng, Nhà nước và nhân dân”. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ mới: “Xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các
vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự”; “Chủ động chuẩn
bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
trong mọi tình huống”.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng
lực lượng quốc phòng, cần tập trung xây dựng lực lượng toàn dân, Quân đội nhân
dân và dân quân tự vệ, trong đó:
- Với xây dựng lực lượng toàn dân, phải
tập trung củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là hạt nhân của lực lượng quốc phòng,
có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước.
Bên cạnh đó, cần tập trung xây dựng các lực lượng chuyên trách, lực lượng kiêm
nhiệm và lực lượng rộng rãi trong các ngành, các cấp, các lĩnh vực, phù hợp với
cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện của từng
vùng, miền, địa phương trên cả nước.
- Với xây dựng Quân đội nhân dân và
dân quân tự vệ, cần tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước; có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có
sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt,
hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý, phù hợp với quan điểm, đường lối quốc
phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời, sẵn sàng phát triển lực lượng
đáp ứng yêu cầu của chiến tranh. Theo đó, bộ đội chủ lực phải được tổ chức tinh
nhuệ, có khí tài hiện đại và hỏa lực mạnh; trang bị, phương tiện cơ động nhanh,
có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Bộ
đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền,
biên giới, ven biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả
trong khu vực phòng thủ. Lực lượng dự bị động viên phải được xây dựng hùng hậu,
rộng khắp, đủ số lượng, chất lượng cao, phục vụ phát triển Quân đội khi cần thiết.
Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao,
phù hợp với các địa phương, các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất - kinh
doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp.
Thứ ba, phát triển mới trong tư duy và
nhận thức về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Thế trận là một trong những nội dung
cơ bản của xây dựng nền quốc phòng toàn dân, của nghệ thuật quân sự. Trong điều
kiện thời bình, chúng ta có điều kiện xây dựng, bố trí thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận phòng thủ chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; sẵn sàng chuyển hóa thế trận chiến tranh nhân dân khi có nguy cơ xảy
ra chiến tranh xâm lược. Thế trận quốc phòng được xây dựng cả thế trận trong nước
và thế trận ở ngoài nước, nhất là các địa bàn trọng điểm chiến lược; liên kết chặt
chẽ nội địa với biên giới, đất liền với biển, đảo; biển, đảo gần bờ với xa bờ.
Thế trận quốc phòng phải được tổ chức toàn diện bao gồm cả về quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao và “thế trận lòng dân”. Liên quan đến xây
dựng thế trận quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng có những phát triển mới về nhận
thức và tư duy gồm:
Một là, xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”. Xây dựng “thế trận
lòng dân” là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam; là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và cả hệ thống chính trị.
“Thế trận lòng dân” là nhân tố luôn được
Đảng quan tâm trong xây dựng nền quốc phòng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa XI “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: Tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực
chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”. Kết hợp chặt chẽ thế trận quốc
phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Đại hội XII của Đảng xác định: Tăng
cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế
trận an ninh vững chắc;... Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc
xây dựng nền an ninh nhân dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và
phát triển: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh
mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân;
xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh
nhân dân”.
Xây dựng thế trận quốc phòng được tiến
hành toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao,
song phải lấy xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là then chốt. Mặt khác,
bên cạnh tiếp tục coi trọng việc xây dựng “thế trận lòng dân”, thì Đại
hội XIII của Đảng đã bổ sung yêu cầu phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng
dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Điều này cho thấy Đảng
ta đặc biệt coi trọng xây dựng nhân tố “thế trận lòng dân” và cần phát huy mạnh
mẽ nhân tố này vào thực tiễn xây dựng tiềm lực quốc phòng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét