CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Hai, 6 tháng 3, 2023

TƯ DUY MỚI VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, MỤC TIÊU VÀ LỘ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

 

    Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự cường và từng bước hiện đại. Nền quốc phòng toàn dân bao gồm tổng thể các hoạt động về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học,... của Đảng, Nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng khi xảy ra chiến tranh; góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ nền hòa bình bền vững của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nội dung cốt lõi của xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân.

          Từ nhận thức về nền quốc phòng toàn dân và nghiên cứu Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, có một số điểm mới trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và mục tiêu, lộ trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030 là:

          Thứ nhất, phát triển mới trong tư duy và nhận thức về xây dựng tiềm lực quốc phòng.

          Xây dựng tiềm lực quốc phòng là chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, nhằm huy động kịp thời mọi nguồn lực về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cả ở thời bình và thời chiến. Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ tiềm lực chính trị, tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực khoa học - công nghệ và tiềm lực quân sự trong một thể thống nhất với nhiều giải pháp sáng tạo, đồng bộ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Liên quan đến xây dựng tiềm lực quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng có những phát triển mới về nhận thức và tư duy:

          Một là, coi trọng và nhấn mạnh việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần. Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thành tố cơ bản, quan trọng nhất của tiềm lực quốc phòng được đặt ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ hữu cơ, chi phối hiệu quả đối với các tiềm lực khác. Trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, nội dung trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, tạo sự đồng thuận, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

          Để xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, đòi hỏi phải kế thừa những giá trị đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời có sự vận dụng, phát triển phù hợp trong điều kiện mới. Đó là phát huy các giá trị về lòng yêu nước, ý chí, niềm tin, truyền thống lịch sử, văn hóa,... trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, điều kiện thế và lực của đất nước được tăng cường; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá...

          Hai là, xác định và mở rộng nguồn lực xây dựng tiềm lực kinh tế thuộc tiềm lực quốc phòng. Xây dựng tiềm lực kinh tế thuộc tiềm lực quốc phòng bao gồm xây dựng các khả năng nguồn lực của nền kinh tế có thể huy động cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, đặc biệt là trong xử lý các tình huống quốc phòng, quân sự ngay từ thời bình hoặc tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế thuộc tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại hội XII của Đảng xác định: cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Đại hội XIII của Đảng cụ thể hóa, bổ sung và phát triển nguồn lực, đó là: Có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh... Đây là thể hiện tư duy mới của Đảng, tạo ra cơ chế mở để phát huy cao nhất các “nguồn lực xã hội” nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp, bảo đảm tốt nhất cho xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

          Thứ hai, phát triển mới trong tư duy và nhận thức về xây dựng lực lượng quốc phòng.

          Nền quốc phòng Việt Nam dựa vào sức mạnh toàn dân, toàn diện của lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng toàn dân gồm các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; là lực lượng đông đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất của quốc phòng. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, là nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

          Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng với mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh. Về nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng, tại Ðại hội XII, Đảng ta mới chỉ xác định: “ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng” nhưng đến Ðại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ, phải xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại: “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”.

          Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị, kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Đặc biệt, sự ra đời của hình thái chiến tranh mạng, chiến tranh vũ trụ, vai trò của trí tuệ nhân tạo, phương tiện tự hành thế hệ mới... đã tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh thế giới, khu vực và mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam phải có những lực lượng hiện đại để sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược.

          Ðại hội XIII của Ðảng cũng tiếp tục khẳng định, nhấn mạnh và đặt ra yêu cầu phải xây dựng Quân đội nhân dân “vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội... tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và nhân dân”. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ mới: “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự”; “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống”.

          Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng, cần tập trung xây dựng lực lượng toàn dân, Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ, trong đó:

          - Với xây dựng lực lượng toàn dân, phải tập trung củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là hạt nhân của lực lượng quốc phòng, có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Bên cạnh đó, cần tập trung xây dựng các lực lượng chuyên trách, lực lượng kiêm nhiệm và lực lượng rộng rãi trong các ngành, các cấp, các lĩnh vực, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước.

          - Với xây dựng Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ, cần tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý, phù hợp với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời, sẵn sàng phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh. Theo đó, bộ đội chủ lực phải được tổ chức tinh nhuệ, có khí tài hiện đại và hỏa lực mạnh; trang bị, phương tiện cơ động nhanh, có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Bộ đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền, biên giới, ven biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả trong khu vực phòng thủ. Lực lượng dự bị động viên phải được xây dựng hùng hậu, rộng khắp, đủ số lượng, chất lượng cao, phục vụ phát triển Quân đội khi cần thiết. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao, phù hợp với các địa phương, các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất - kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp. 

          Thứ ba, phát triển mới trong tư duy và nhận thức về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

          Thế trận là một trong những nội dung cơ bản của xây dựng nền quốc phòng toàn dân, của nghệ thuật quân sự. Trong điều kiện thời bình, chúng ta có điều kiện xây dựng, bố trí thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận phòng thủ chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng chuyển hóa thế trận chiến tranh nhân dân khi có nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược. Thế trận quốc phòng được xây dựng cả thế trận trong nước và thế trận ở ngoài nước, nhất là các địa bàn trọng điểm chiến lược; liên kết chặt chẽ nội địa với biên giới, đất liền với biển, đảo; biển, đảo gần bờ với xa bờ. Thế trận quốc phòng phải được tổ chức toàn diện bao gồm cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao và “thế trận lòng dân”. Liên quan đến xây dựng thế trận quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng có những phát triển mới về nhận thức và tư duy gồm:

          Một là, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”. Xây dựng “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và cả hệ thống chính trị.

          “Thế trận lòng dân” là nhân tố luôn được Đảng quan tâm trong xây dựng nền quốc phòng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”. Kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Đại hội XII của Đảng xác định: Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh vững chắc;... Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền an ninh nhân dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”.

          Xây dựng thế trận quốc phòng được tiến hành toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, song phải lấy xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là then chốt. Mặt khác, bên cạnh tiếp tục coi trọng việc xây dựng “thế trận lòng dân”, thì Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung yêu cầu phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Điều này cho thấy Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng nhân tố “thế trận lòng dân” và cần phát huy mạnh mẽ nhân tố này vào thực tiễn xây dựng tiềm lực quốc phòng.

Related Posts:

0 nhận xét: