Tóm tắt: Nhìn lại chặng đường
hơn 35 năm đổi mới, chúng ta có quyền tự hào khẳng định rằng những thành tựu về
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước,
tăng cường đoàn kết toàn dân tộc mà chúng ta đạt được thực sự là to lớn và có ý
nghĩa lịch sử cả về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng ta, trên nền tảng chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh,
là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo; chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
cách mạng nước ta là phù hợp hoàn cảnh thực tế Việt Nam và phù hợp với xu thế
thời đại. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức và nguy cơ
không thể xem thường, đòi hỏi chúng ta phải bổ sung và phát triển di sản lý luận
của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng tiến lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từ khóa: kinh tế - xã hội, chủ
nghĩa xã hội, Việt Nam.
Việc nhận thức, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về hình
thái kinh tế xã hội đang trở thành nhiệm vụ chính trị cấp bách trong cuộc đấu
tranh lý luận tư tưởng đang diễn ra rất gay go, phức tạp hiện nay. Từ khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô cũ và Đông Âu tan rã, vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã và đang bị chủ nghĩa cơ hội tìm mọi
cách xuyên tạc, bác bỏ; họ cho rằng Liên - Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu sụp đổ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển, chủ nghĩa xã hội
không phù hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học; không đủ điều
kiện vật chất, văn hoá cần thiết cho sự phát triển. Ở Việt Nam, những người
theo quan điểm cơ hội, xét lại cho rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là quá sớm và sai lầm, do đó phải “quay lại chủ nghĩa tư bản”. Vì vậy
phải quán triệt học thuyết của Chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội để
tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và chúng ta có
cơ sở khoa học để tin rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở nước ta là tất yếu và có khả năng, đó là con đường duy nhất
đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, là sự lựa chọn tất yếu của
lịch sử.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là học thuyết khoa học và cách
mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác tiếp cận lịch sử xã hội loài
người bằng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đây là cách tiếp cận khoa học
và hoàn bị nhất, là cuộc cách mạng trong nghiên cứu sự phát sinh, phát triển
của xã hội loài người.
Mác nghiên cứu xã hội từ nền sản xuất vật chất, từ đó rút ra quy
luật xã hội. Mác cho rằng xã
hội là một chỉnh thể có hệ thống và cấu trúc, trong mỗi giai đoạn nhất định đều
có các yếu tố cơ bản và phổ biến: lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; cơ sở
hạ tầng hợp thành trên các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
trên cơ sở hạ tầng. Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất
của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế, là yếu
tố xét đến cùng quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Quan
hệ sản xuất là quan hệ khách quan cơ bản hình thành trong quá trình sản xuất,
là quan hệ quyết định chi phối mọi quan hệ xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt
bản chất các xã hội khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử. Kiến trúc thượng tầng
thể hiện bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội, do cơ sở hạ tầng quyết định,
nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác
động lẫn nhau của các yếu tố trong hình thái kinh tế - xã hội, hình thành hai
quy luật cơ bản, đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng. Sự tác động tổng hợp của hai quy luật ấy là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển mà suy đến cùng do yếu tố lực lượng sản xuất quyết định. Như
vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã luận giải quy luật vận động đời sống chính
trị của xã hội trên cơ sở đời sống kinh tế, tạo thành điều kiện đủ khi nghiên
cứu, tiếp cận lịch sử xã hội. Phương pháp tiếp cận lịch sử bằng học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội giúp Mác nhìn thấy động lực của lịch sử là do hoạt động
thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan chứ không
phải một thứ tinh thần thần bí nào. Xuất phát từ “Cái sự thật hiển nhiên... là
trước hết con người cần phải ăn uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước
khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính
trị, tôn giáo, triết học...”. Động lực của sự phát triển xã hội bắt nguồn từ
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản
xuất và quy luật quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Học thuyết hình thái - xã hội không chỉ xác định các yếu tố cấu
thành hình thái kinh tế - xã hội, mà còn xem xét xã hội trong một quá trình
biến đổi và phát triển không ngừng. Mác viết “tôi coi sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử, tự nhiên”. Trong
quan niệm coi sự vận động xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác luận giải đó là quá trình lịch sử nhưng mang tính
tự nhiên, tiếp tục lịch sử của giới tự nhiên, vận động theo quy luật và xét đến
cùng thì không thể phụ thuộc vào ý muốn con người. Chính là dựa vào tư tưởng vĩ
đại này, dựa vào những định hình khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội
tạo ra cơ cấu kinh tế của xã hội. Mác đã tách ra các hình thái kinh tế - xã hội
ra và cho rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó được coi là một cơ chế tự phát
triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ chế xã hội riêng biệt, có những
quy luật riêng về sự ra đời của nó về hoạt động của nó và bước chuyển biến của
nó lên một hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ chế xã hội khác. Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội: xã hội cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm
hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội
phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa... tạo nên trục đường
tiến triển trong lịch sử loài người. Từ nghiên cứu các quy luật của sự phát
triển xã hội nói chung và nhất là chủ nghĩa tư bản nói riêng, Mác và Ăngghen đã
dự đoán sự xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa,
không có đối kháng giai cấp và không có tình trạng bóc lột người.
Theo
Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã
hội khác được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên sâu xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, đặc biệt là khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng
xích của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ cách mạng, cơ sở kinh tế thay đổi
thì tất cả kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Từ những
cơ sở khoa học luận giải như vậy, chủ nghĩa Mác đã kết luận hình thái kinh tế -
xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Sự thay thế được thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề
quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng
thành của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, sự phát triển giữa
các quốc gia thường diễn ra không đều, kể cả khả năng phát triển bỏ qua một
hình thái kinh tế xã hội nào đó. Nhìn chung, cho đến nay, lịch sử nhân loại đã
trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau: Cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang chủ nghĩa xã
hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian,
về thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái
kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung. Lịch sử cho thấy, có những nước
do những điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài chi phối đã
bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của
mình. Chẳng hạn ở một số nước (I-ta-li-a, Pháp, Tây Ban Nha...), chế độ phong
kiến đã bắt đầu hình thành trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ phong kiến
ra đời không phải từ chế độ chiếm hữu nô lệ như (Nga, Ba Lan, Đức); ở Mỹ: chủ
nghĩa tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong
kiến. Đây là sự phát triển rút ngắn bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã
hội. Tất cả sự phát triển tuần tự qua đủ các hình thái kinh tế - xã hội lẫn
phát triển rút ngắn, bỏ qua một hình thái trong trường hợp nào đó đều là quá trình lịch sử tự nhiên, xét theo những
quy luật và những điều kiện cụ thể khách quan quy định.
Lênin
vận dụng quan điểm của Mác, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa và đã nêu lên khả năng không phải trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa ở các nước lạc hậu. Nghĩa là trong những điều kiện nhất định, ở các nước lạc hậu
không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự như lịch sử ra đời và phát triển
của chủ nghĩa tư bản như các nước tư bản đã từng trải qua. Lênin viết: “Với sự
giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến
tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng
sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Theo
Lênin, đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc bị áp bức bởi chủ nghĩa đế quốc
thì sau khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến ngay lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa
trong những điều kiện cần và đủ: Các nước đó phải giành được độc lập dân tộc,
thiết lập chuyên chính về tay công - nông, phải có đảng cộng sản lãnh đạo, lực
lượng cách mạng phát triển dựa trên khối liên minh công - nông vững chắc. Hình
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi thời lạc hậu, hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản đã xuất hiện trong lịch sử. Theo
đó, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia
tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không
mâu thuẫn với quá trình lịch sử - tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của
quá trình lịch sử tự nhiên ấy. Cũng như trong lịch sử đã từng diễn ra một số
nước bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế độ phong kiến để tiến lên chế độ tư
bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào và chỉ ai chủ trương thực hiện “rút ngắn” một cách
duy ý chí, bất chấp quy luật thì lúc đó mới trở nên đối lập với quá trình lịch
sử tự nhiên.
Như
vậy, chủ nghĩa Mác đã luận giải sự phát triển của xã hội là sự thay thế các
hình thái kinh tế - xã hội và quá trình đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên
và chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả
trường hợp bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong
những hoàn cảnh kịch sử cụ thể nhất định. Do đó, đây là cơ sở phương pháp luận
khoa học và cách mạng, cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng cho Đảng cộng sản Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn con đường cách mạng của dân
tộc mình.
Đi lên chủ nghĩa xã hội
là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam
Vào những năm đầu thế kỷ XX,
cách mạng Việt nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Hàng loạt phong trào yêu nước
theo lập trường phong kiến và tiểu tư sản đều bị dập tắt và đều chịu chung số
phận thất bại. Trong bối cảnh đó, với lòng yêu nước nồng nàn, thương dân sâu
sắc và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi
tìm đường cứu nước, Người đã đi đến chủ nghĩa Mác và tìm thấy ở đó con đường
cứu nước đúng đắn nhất và Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Muốn giải phóng dân tộc, không
có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới ra khỏi ách nô lệ. Đồng thời Người khẳng định con đường cách mạng
Việt Nam là giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn của
Người là sự lựa chọn của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam, của dân tộc
ta phù hợp với xu thế của thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Con đường cách mạng Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn được thực thi trong
thực tiễn bằng công tác tuyên truyền, vận động cách mạng và gắn với việc thành
lập Đảng cách mạng của giai cấp công nhân ở nước ta. Theo Người: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà chân
chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách
tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu và yêu thương nhau”.
Trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính cương và sách lược vắn tắt,
sau đó là cương lĩnh năm 1930 của Đảng lần lượt ra đời, vạch ra đường lối đúng
đắn cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Trung thành và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã chỉ ra con đường cách mạng
Việt Nam là con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội
qua hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đường lối cách mạng đó đã đặt nền móng cho sự tiếp tục làm rõ và phát
triển hơn nữa về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình
cách mạng. Chính Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt nhận thức đúng
đắn về thời đại, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam để lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi theo con
đường của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lái
con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi
của cách mạng tháng Tám năm 1945, của các cuộc chiến tranh oanh liệt giải phóng
dân tộc, bảo vệ tổ quốc có ý nghĩa lịch sử không chỉ đối với dân tộc ta, mà còn
có ý nghĩa thế giới. Đó là kết quả sự kết tinh của sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí
thông minh sáng tạo của quân và dân ta đánh thắng thực dân cũ và mới, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với
cách mạng nước ta, mà còn đối với phong trào cách mạng thế giới.
Bước vào thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Đông Âu, Liên Xô và
tạm thời đi vào thoái trào. Những thành tựu sự nghiệp đổi mới trong kinh tế,
chính trị, văn hoá, khoa học... đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không
những vượt qua khủng hoảng mà còn tạo ra thế mới, lực mới để tiếp tục phát
triển. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được chứng minh bằng những
thắng lợi to lớn và phong phú, nó đã làm cho nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, trở thành quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng trong quan hệ với tất cả
các nước. Nhân dân ta đang làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đang đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó khẳng định, con
đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải một sớm một chiều. Quá trình
đó phải trải qua những giai đoạn, những nấc thang đa dạng. Sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm về mô hình, sai lầm về nhận
thức và mặt chủ quan. Còn lý luận chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội
vẫn còn nguyên giá trị và xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội tốt đẹp, mơ ước của
nhân loại tiến lên để nhằm giải phóng con người toàn diện.
Vận
dụng sáng tạo những tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác vào thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dựa trên lý luận về học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, chúng ta có thể khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn có đủ khả năng và điều kiện vì đó là
một tất yếu, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử, bởi vì: Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác cho rằng đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa cần phải
có tấm gương của một cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi để làm bài học mẫu hình
cho việc rút ngắn con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, thì đối với Việt Nam, cho
đến nay tấm gương của các cuộc cách mạng vô sản đã phong phú đến mức bao hàm
trong đó nhiều bài học sinh động về sự thành công và thất bại, sâu sắc và chi
tiết đến mức có thể nêu ra được những tình huống và những giải pháp điển hình
cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. Mặt khác, chủ nghĩa Mác chỉ
ra rằng, cần phải có sự giúp đỡ tích cực của giai cấp vô sản các nước tiên
tiến, các nước tiền tư bản chủ nghĩa mới có thể rút ngắn được con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội thì ở nước ta hiện nay, có thể nói rằng Đảng và nhà nước ta
hơn bao giờ hết đã có đủ kinh nghiệm và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự ủng hộ
của các lực lượng xã hội tiến bộ trên thế giới cũng như của giai cấp vô sản
quốc tế để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng
ta đã sớm nắm bắt và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới; chính sách mở
cửa, hợp tác đa dạng, đa phương cùng có lợi là một nhân tố quan trọng của sự
nghiệp xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại ở nước ta đã tạo ra những thời cơ thuận lợi,
những động lực mạnh mẽ cho công cuộc phát triển đất nước. Cùng với những lý do
trên, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt nam là nhân tố có
vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Chỉ có
Đảng Cộng sản Việt nam mới có đủ khả năng để thực hiện sứ mệnh xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt nam. Những
thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã trở
thành bài học kinh nghiệm quý để chúng ta tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
đến đích thắng lợi. Đại hội XIII Đảng ta đề ra mục tiêu đó là: “phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát
triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”.
Với
những lý do và đặc điểm trên đây có thể khẳng định rằng con đường của cách mạng
Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa là sự phát triển rút ngắn và hợp quy luật. Đồng thời điều đó được chứng
minh rất rõ trên thực tế của thành tựu trên các mặt của công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nước mà nhân dân ta đã nhận thấy và bè bạn trên thế giới nhận định
và khen ngợi, khâm phục.
Ngày nay,
những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, âm mưu thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức
chống phá và coi Việt Nam là một trọng điểm. Nhưng Đảng và nhân dân ta luôn tin
tưởng vào khả năng thành công của con đường mà dân tộc ta đã lựa chọn. Bởi lẽ,
với truyền thống và kinh nghiệm cách mạng đã tích luỹ và trải qua thể nghiệm,
tìm tòi, với đường lối đổi mới đúng đắn, đất nước ta đang có vị thế mới, đất
nước sẽ tiếp tục vững bước phát triển, trên con đường thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Những cơ sở lý luận và thực
tiễn đã khẳng định việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là một tất yếu khách quan, có đầy đủ cơ sở, điều kiện, khả năng hiện
thực. Đó là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Nhưng trong quá trình lãnh đạo
cách mạng và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cũng phạm những sai
lầm khuyết điểm trong nhận thức và hành động. Đặc biệt là sự nhận thức về bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa còn thiếu biện chứng, đã có một giai đoạn, chúng ta
phủ nhận sạch trơn những giá trị tích cực dưới chế độ tư bản hoặc coi những gì
của chủ nghĩa tư bản đến là sấu xa, phản động còn đối với chủ nghĩa xã hội chỉ
có duy nhất là màu hồng, tốt đẹp, đó là chủ quan, thiếu cái nhìn chân thực,
toàn diện... Chính vì vậy chúng ta cần phải nhận thức một cách đầy đủ, khách
quan, khoa học toàn diện, lịch sử cụ thể con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta bỏ qua phát triển chế
độ tư bản chủ nghĩa chính là một kiểu phát triển rút ngắn nhưng vẫn tôn trọng
quá trình lịch sử tự nhiên không thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đó
là sự quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đó là việc rút ngắn “những cơn đau
đẻ kéo dài”, nghĩa là rút ngắn giai đoạn và bước đi của tiến trình lịch sử lên
chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Phương thức bỏ qua là một quá trình đầy
khó khăn phức tạp tính tất yếu phải lâu dài và trải qua nhiều chặng đường, qua
nhiều khâu trung gian, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ nhưng việc bỏ qua để nhanh đạt được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Như
vậy, lý luận chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
nói riêng ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và là cơ sở khoa học cho Đảng ta nhận
thức, luận giải, vận dụng sáng tạo để ngày càng làm rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời khẳng định cơ sở vững chắc nước ta bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù
hợp với xu thế thời đại, đặc điểm hoàn cảnh nước ta và tuyệt đại đa số nhân dân
ta mong ước. Do đó, chúng ta càng tin tưởng hơn nữa về con đường cách mạng nước
ta do Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn có đủ điều kiện và khả năng hiện
thực để đi đến thắng lợi. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”.
Trung thành và vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta nhận thức: Con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản và con đường đó được Đảng ta, Bác Hồ và nhân dân lựa chọn, đồng thời
cũng chính là sự lựa chọn của lịch sử. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của đất
nước và ngày càng khẳng định tính đúng đắn, khoa học. Với thành tựu của công
cuộc đổi mới đất nước, ngày càng làm rõ hơn con đường của cách mạng Việt Nam
hiện nay là phù hợp với hoàn cảnh đất nước, xu thế, hợp với quy luật phát triển
của thời đại.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011.
2. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII,
Nxb Chính trị quốc gia, H. 2016.
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị
quốc gia, H.
2021.
4. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2021.
5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6,
Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011.
6. Nguyễn Phú Trọng (2022), “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb CTQG-ST, H. 2022.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét