Hòa hợp dân tộc
là chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta nhằm xóa bỏ định kiến, phân
biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên tinh thần cởi mở, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai. Tuy nhiên, sau 48 năm đất nước thống nhất, vẫn còn một bộ
phận cố chấp ôm hận, hằn học, khơi sâu thêm vết thương của quá khứ với mưu đồ
chống phá chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
Chiến tranh
đã lùi xa, lịch sử đã được khép lại, đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được quốc tế đánh giá cao,
nhưng vì sao một số người vẫn giữ định kiến, cố chấp ôm hận? Lý giải cho sự cố
chấp ôm hận ấy không đơn thuần chỉ là do tính bảo thủ của cá nhân, hay dấu ấn lịch
sử để lại mà đằng sau đó còn để thực hiện mưu đồ phản động, cơ hội chính trị,
chống phá chế độ, phá hoại đất nước, đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc. Bằng
chứng là họ cố tình “bẻ lái” vấn đề hòa hợp dân tộc thành chống phá Đảng, Nhà
nước, đích đến của mọi luận điệu, thủ đoạn chống phá đều là đòi đa nguyên, đa đảng,
lật đổ chế độ. Họ cố tình đánh tráo bản chất, lập luận vòng vo rằng hòa hợp dân
tộc là hòa hợp giữa những người “bất đồng chính kiến”, những “nhà dân chủ” với
chính quyền nước ta hiện nay; họ tự huyễn hoặc cho mình là đại diện cho lợi ích
của đồng bào ta ở hải ngoại để đưa ra yêu sách phi lý. Họ phê phán chính sách
hòa hợp dân tộc chỉ là “đãi bôi”, “con đường nửa vời” nếu còn chế độ cộng sản;
từ đó, họ kêu gọi phải coi việc xóa bỏ chế độ cộng sản là một “mệnh lệnh của
lương tâm, là tương lai của dân tộc”, v.v. Từ những đòi hỏi phi lý, như: không
kỷ niệm chiến thắng 30/4, không dùng các cụm từ “cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước”, “giải phóng miền Nam”, “đế quốc Mỹ và tay sai”, “ngụy quân ngụy quyền”,…
họ còn ảo tưởng đòi phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên,
đa đảng, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn.
Thực tế là,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta, nhân dân ta từ vũng bùn nô lệ đã đứng
lên đấu tranh giành độc lập, tự do; đất nước ta đang tiến những bước vững chắc
trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn trên mọi mặt
của đời sống xã hội, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”. Vậy thì hỏi rằng, nếu vì dân, vì nước, thì hà
cớ gì đòi đất nước phải bỏ Đảng, học đòi nền dân chủ kiểu phương Tây mới chịu
hòa hợp dân tộc? Bài học mất chủ quyền, quyền tự quyết, bất ổn kéo dài của các
nước Ả Rập, Afghanistan, Iraq,… khi “ngả” theo phương Tây và Mỹ chưa rõ ràng
hay sao? Bản chất cơ hội chính trị của những kẻ cố chấp ôm hận đã lộ rõ với mưu
đồ phản động ấy.
Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã từng
khẳng định: “… nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể
chia cắt được”1, “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê
Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau.”2, “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”3. Đó chính là những điều thiêng
liêng, vấn đề có tính nguyên tắc, bất khả xâm phạm, khẳng định chủ quyền quốc
gia, độc lập dân tộc, thống nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
ta. Trong các văn kiện từ khi thành lập Đảng đến nay đều nhất quán điều
thiêng liêng đó, được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và thực thi hiệu quả.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về hòa hợp
dân tộc, như: Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị
(khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Quy chế miễn thị
thực cho người Việt Nam ở nước ngoài; Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 19/5/2015 của Bộ
Chính trị (khóa XI) về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết số
36-NQ/TW, v.v. Trong đó, khẳng định rõ: người Việt Nam ở nước ngoài là bộ
phận không tách rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong công cuộc
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục quan tâm, sớm có giải pháp phù hợp
để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại
quá khứ, hướng tới tương lai; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng,
không phân biệt ý thức hệ, lịch sử cá nhân, kể cả đối với những người còn định
kiến, mặc cảm với chế độ xã hội; lấy tình thân ái để cảm hóa những đồng bào lầm
đường lạc lối. Nhà nước tích cực rà soát, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách
và pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài đầu
tư, sản xuất kinh doanh trong nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tháo gỡ
vướng mắc về việc sở hữu các tài sản tại Việt Nam, cấp lại quốc tịch cho những
người có đủ điều kiện; đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, đầu tư, chuyển, nhận
và sử dụng kiều hối,… tạo thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài khi về Việt
Nam sinh sống, làm ăn, góp phần vào thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, thúc
đẩy xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
Cùng với đó
là những hành động thiết thực để chủ động mở rộng tiếp xúc với tất cả kiều bào
ta định cư ở nước ngoài. Các cơ quan chuyên trách về công tác người Việt ở nước
ngoài luôn tích cực hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững
chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập với xã hội nước sở tại;
đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, hướng về Tổ quốc; hỗ trợ dạy và học tiếng
Việt hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần của bà con
theo truyền thống dân tộc và phù hợp với đặc thù, pháp luật của nước sở tại. Những
năm gần đây, đã có thêm nhiều việc làm thiết thực, nhiều chương trình mang tính
thực tế, như: Xuân quê hương, người Việt ở nước ngoài với chủ quyền biển, đảo;
dân sự hóa nghĩa trang Biên Hòa, tổ chức đại lễ cầu siêu,… giúp nối vòng tay lớn
với kiều bào, nhiều người trước kia còn nặng định kiến nay đã thay đổi nhận thức,
có những đóng góp thiết thực cho quê hương đất nước. Do khách quan, chủ quan
mang tính lịch sử mà có thời điểm tiến trình hòa hợp dân tộc còn gặp nhiều khó
khăn, có mặt còn hạn chế; nhưng xuyên suốt là hành trình không ngừng nghỉ của Đảng,
Nhà nước Việt Nam chăm lo giải quyết vấn đề hòa hợp dân tộc; kiên trì vận động,
thuyết phục những người còn giữ định kiến, mặc cảm, nỗ lực hàn gắn vết thương
chiến tranh, dựng xây và phát triển đất nước.
Hòa hợp dân tộc
là ước vọng chính đáng của đại đa số người Việt Nam trong nước và ở nước ngoài;
là dòng chảy chủ đạo cuốn trôi những hận thù của quá khứ. Những ai còn cố chấp
ôm hận, cản trở tiến trình hòa hợp dân tộc sẽ có tội với tương lai của chính
con cháu mình.
BVM - H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét