Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, thế
giới chứng kiến sự bùng nổ làn sóng chính trị chưa từng có được gọi bằng những
cái tên khác nhau rất mỹ miều, như “cách mạng màu”, “mùa xuân Arab”, hay “biểu
tình hòa bình” núp dưới các yêu sách “đòi dân sinh”, “xúc tiến dân chủ”, “cải
cách”, “bảo vệ nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “chống độc tài” hay là “chống
gian lận trong bầu cử”...
Đã có không ít nguyên thủ nhiều
nước đương quyền hoặc vừa mới giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử đã phải ra
đi trước sức ép của làn sóng chính trị này. Ở Việt Nam, một số kẻ cơ hội chính
trị, phản động đã vận dụng học thuyết phản kháng phi bạo lực, đề ra chủ thuyết
về "cách mạng trắng", "cách mạng hoa sen"... với âm mưu thay
đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Vậy thực chất của học thuyết phản kháng phi bạo
lực là gì?
Nạn nhân của học thuyết phản
kháng phi bạo lực, điển hình là cuộc “cách mạng hoa hồng” trong năm 2003 buộc Tổng
thống Gruzia Eduard Shevardnadze phải từ chức ngay sau khi vừa tuyên bố đắc cử
tổng thống để nhường ghế cho Mikheil Saakashvili-một chính khách được đào tạo rất
bài bản ở Mỹ. Cuộc “cách mạng cam” lần thứ nhất ở Ukraine năm 2004 đưa Viktor
Yushchenko lên cầm quyền và cuộc “cách mạng cam” lần thứ hai cuối năm 2013 đầu
năm 2014 dẫn tới cuộc chiến tranh bạo loạn lật đổ chính thể của Tổng thống
Viktor Yanukovych. Phong trào chính trị mang tên “mùa xuân Arab” từ cuối năm
2010 tới nay vẫn chưa chấm dứt ở các nước Bắc Phi-Trung Đông, núp dưới khẩu hiệu
“chống tham nhũng” và “chống độc tài” để lật đổ chính thể của chính phủ nhiều
nước trong khu vực này. “mùa xuân Arab” đã dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược
Libya do NATO tiến hành để xóa bỏ chính thể của Tổng thống Muammar Gaddafi. “Cuộc
cách mạng nhung” dẫn tới bạo loạn chính trị ở Venezuela năm 2012 với toan tính
ngăn chặn Tổng thống Hugo Chaves tái đắc cử nhưng bất thành. Cuộc “cách mạng trắng”
ở Nga với toan tính ngăn cản Vladimir Putin đắc cử nhiệm kỳ thứ ba trong cuộc bầu
cử tổng thống năm 2012...
Theo giới phân tích chính trị quốc
tế, căn nguyên sâu xa của làn sóng các cuộc “cách mạng màu” trên đây đều xuất
phát từ một học thuyết chính trị mang tên “phản kháng phi bạo lực”-nghĩa là
không thiên về sử dụng bạo lực để giành chính quyền. Học thuyết này đang là tâm
điểm thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế và giới nghiên cứu công nghệ chính
trị. Một trong những chuyên gia bậc thầy về học thuyết “phản kháng phi bạo lực”
là Michael McFaul-vị đại sứ của Mỹ ở Nga nhậm chức vào năm 2012. Michael McFaul
từng nhận được học bổng theo chương trình đào tạo mang tên “Cecil Rhodes,
1853-1902” để theo học tại Đại học Oxford (Anh). Chương trình này chuyên đào tạo
giới tinh hoa chính trị của nhiều nước nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của đế chế
Anh trên toàn thế giới dưới khẩu hiệu “đòi dân chủ” và “vì tự do”. Theo Michael
McFaul, khi quá trình phi thực dân hóa bùng phát sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, Chính phủ Anh quyết định phát triển một hình thức bá chủ thế giới kiểu mới
được gọi là cuộc “chiến tranh ủy nhiệm”. Chủ trương chiến lược này được nghiên
cứu và hoàn thiện tại Đại học Oxford theo một chương trình mang tên "Đề án
phản kháng dân sự và chính sách sức mạnh", gọi tắt là CR&PP (Civil
Resistance and Power Politics). Từ năm 2006, lãnh đạo đề án này là hai vị giáo
sư của Đại học Oxford là Adam Roberts và Timothy Garton Ash.
Adam Roberts cũng là người phụ
trách chương trình của Đại học Oxford về thay đổi tính chất chiến tranh (Oxford
University Programme on the Changing Character of War) nhằm áp dụng các biện
pháp phản kháng phi bạo lực trong chiến lược chính trị và quân sự trên phạm vi
toàn cầu. Trong một cuộc hội thảo quốc tế tại Đại học Oxford được tổ chức trong
khuôn khổ Đề án CR&PP do Adam Roberts chủ trì, Michael McFaul tham dự và đọc
tham luận về học thuyết phản kháng phi bạo lực. Về sau, Michael McFaul tập
trung nghiên cứu về Nga và trở thành chuyên gia hàng đầu về học thuyết phản
kháng phi bạo lực với nhiều công trình nghiên cứu như “Cuộc cách mạng chưa kết
thúc ở Nga: Những thay đổi chính trị từ Gorbachev tới Putin” (“Russia's
Unfinished Revolution: Political Change from Gorbachev to Putin”); “Sự lựa chọn
phổ biến và nền dân chủ có điều khiển: Các cuộc bầu cử ở Nga trong những năm
1999-2000” (“Popular Choice and Managed Democracy: The Russian Elections of
1999 and 2000”); “Dân chủ và chuyên quyền trong thế giới hậu cộng sản”
(“Democracy and Authoritarianism in the Рostcommunist World”) và “Dân chủ tiến
bộ trên thế giới: vì sao chúng ta cần và chúng ta có thể hành động thế nào”
(“Advancing Democracy Abroad: Why We Should and How We Can”)... Chính Michael
McFaul là kiến trúc sư trưởng của nhiều cuộc “cách mạng màu” và là người chấp
bút bản báo cáo tổng kết của Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID) về các cuộc
“cách mạng màu” trong không gian hậu Xô viết
Một chuyên gia chính trị học người
Mỹ khác là Gene Sharp-nhà lý luận bậc thầy về học thuyết phản kháng phi bạo lực
và cũng từng được đào tạo tại Đại học Oxford. Gene Sharp nổi tiếng thế giới bởi
những tác phẩm của ông viết về các phương pháp phản kháng phi bạo lực nhằm lật
đổ các chế độ cầm quyền được ông gọi là “chuyên chế”. Năm 1983, Gene Sharp
thành lập Viện xã hội mang tên Albert Einstein-một tổ chức phi chính phủ chuyên
nghiên cứu cách thức sử dụng các phương pháp đấu tranh phi bạo lực. Gene Sharp
là tác giả hai chuyên khảo nổi tiếng mang tựa đề "Từ chuyên chế đến dân chủ"
("From Dictatorship to Democracy") và "198 phương pháp phản
kháng phi bạo lực" ("198 Methods of Nonviolent Action"). Hai tác
phẩm này là cơ sở lý luận và thực tiễn của học thuyết phản kháng phi bạo lực, được
dịch ra hàng chục thứ tiếng và phổ biến rộng rãi ở nhiều nước. Chỉ tính riêng
năm 2012 đã có 44 bản dịch học thuyết phản kháng phi bạo lực của Gene Sharp
sang tiếng Nga, tiếng Thái, tiếng Arab, tiếng Myanmar... và được sử dụng làm “cẩm
nang” của “các chiến sĩ đấu tranh cho tự do” chống lại chế độ “chuyên chế” ở
nhiều nước trên thế giới. Những tác phẩm của Gene Sharp được sử dụng làm giáo
trình huấn luyện về chiến lược và chiến thuật phản kháng phi bạo lực tại Trung
tâm quốc tế nghiên cứu về xung đột phi bạo lực của Mỹ. Các lực lượng đối lập ở
nhiều nước, nhất là một số nước cộng hòa trong không gian hậu Xô viết và các nước
Arab từng trải qua các khóa huấn luyện tại trung tâm này. Vì thế, Gene Sharp được
mệnh danh là “cha đẻ” tư tưởng về các cuộc “cách mạng màu” đã và đang diễn ra
trên khắp thế giới.
Theo học thuyết phản kháng phi bạo
lực của Gene Sharp, quần chúng nhân dân không chỉ là người bỏ lá phiếu bầu
nguyên thủ các quốc gia mà cũng có thể là lực lượng nòng cốt trong các cuộc bạo
loạn chính trị để lật đổ họ một khi không đáp ứng được lợi ích của phương Tây.
Khi đó, người dân được kích động, lôi kéo bằng rất nhiều thủ đoạn tinh vi và trở
thành các chiến binh thực sự trong cuộc chiến tranh bạo loạn được tiến hành dưới
khẩu hiệu “đòi dân chủ”, “vì tự do”, “đòi nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “chống
đói nghèo”... Tuy nhiên, theo Gene Sharp, hoạt động phản kháng phi bạo lực để lật
đổ chính thể của các quốc gia “chuyên chế” không chỉ bằng các biện pháp “biểu
tình hòa bình” mà trong trường hợp cần thiết phải kết hợp với hành động can thiệp
quân sự từ bên ngoài. Cuộc chiến tranh xâm lược do NATO tiến hành ở Libya năm
2011 là diễn biến tiếp theo sau các cuộc “biểu tình hòa bình” trong “mùa xuân
Arab” là thí dụ điển hình nhất về luận điểm này của Gene Sharp. Cũng theo Gene
Sharp, phản kháng phi bạo lực không chỉ là sự phản kháng của người dân trong
khuôn khổ pháp luật như thiết lập đối thoại với chính quyền mà còn có thể xóa bỏ
luật pháp hiện hành bằng bạo lực. Trong số 198 phương pháp phản kháng phi bạo lực
do Gene Sharp đề xuất, có cả các phương pháp bạo lực như khủng bố, làm giả tài
liệu, phát tán tiền giả, cướp bóc, hãm hại, ám sát, thâm nhập vào những công
trình được bảo vệ để chiếm giữ các tòa nhà và văn phòng của chính phủ. Các cuộc
“cách mạng màu” hay phong trào “mùa xuân Arab” đã thể hiện rất rõ luận điểm này
của Gene Sharp.
Theo học thuyết phản kháng phi bạo
lực của Gene Sharp, hoạt động lật đổ chính thể của một quốc gia diễn ra theo 3
giai đoạn. Giai đoạn 1, phát hiện các điểm yếu trong bộ máy chính quyền sở tại
như nạn tham nhũng của các quan chức chính phủ, khó khăn kinh tế-xã hội, khoảng
cách giàu-nghèo quá lớn, nội bộ chính quyền bị chia rẽ, gian lận trong bầu cử.
Từ đó xác định khẩu hiệu cho các hoạt động “mềm” như mít tinh và biểu tình nhằm
khoét sâu thêm khiếm khuyết và tiêu cực trong xã hội và hệ thống chính trị, từ
đó quy kết bộ máy quản lý yếu kém của chính quyền và chứng tỏ chính thể hiện thời
“không có năng lực” và “không hợp lòng dân”... Để thực hiện nhiệm vụ trong giai
đoạn này sẽ sử dụng bộ máy truyền thông, trước hết là các mạng xã hội như
Facebook, Twitter... Lấy cảm hứng từ hiệu quả rất cao của các mạng xã hội trong
việc khơi mào các hoạt động phản kháng và đẩy tới bạo loạn chính trị, cựu Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đưa ra dự báo về “kỷ nguyên cách mạng màu từ mạng
internet”. Nhiệm vụ của giai đoạn này còn là để kiểm chứng khả năng phản ứng của
chính quyền, khả năng kích động dư luận xã hội và liên kết các nhóm phản kháng
đơn lẻ thành phong trào chống chính phủ trên quy mô lớn, thậm chí trong phạm vi
cả nước. Giai đoạn 2, tập trung làm băng hoại uy tín và thể diện của bộ máy quyền
lực nhà nước, thậm chí vận động các quan chức chính phủ đã thoái hóa biến chất
đứng về phía “người dân” để chống lại chính quyền. Giai đoạn 3, ra tối hậu thư
yêu cầu người đứng đầu chính quyền từ chức, thậm chí gây bạo loạn để lật đổ
chính thể hiện hành và dựng lên chính quyền mới đáp ứng lợi ích của các thế lực
bên ngoài.
Trung tâm điều phối toàn bộ hoạt
động phản kháng phi bạo lực là đại sứ quán nước ngoài ở nước sở tại và các cơ
quan tình báo quốc tế. Tài trợ trực tiếp cho các hoạt động này là hàng trăm tổ
chức phi chính phủ của phương Tây hoạt động trên khắp thế giới như “Ngôi nhà tự
do” , “Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ”, “Viện quốc gia nghiên cứu quốc tế của Đảng
Cộng hòa”, “Viện quốc gia nghiên cứu quốc tế của Đảng Dân chủ”, Cơ quan phát
triển quốc tế Hoa Kỳ. Những tổ chức này tài trợ cho hàng nghìn tổ chức phi
chính phủ được lập ra ở các quốc gia mục tiêu-nơi dự kiến sẽ tiến hành “cách mạng
màu” để lật đổ chính quyền sở tại. Những tổ chức này hiện diện trước hết tại
các quốc gia nằm ở những khu vực đang diễn ra cạnh tranh địa-chính trị giữa các
cường quốc như không gian hậu Xô viết, Bắc Phi-Trung Đông, Mỹ Latin, Đông Nam
Á, Nam Á. Lực lượng trực tiếp tiến hành hoạt động phi bạo lực là các lực lượng
đối lập thường được hình thành ở những quốc gia có chế độ chính trị đa nguyên
đa đảng, hoặc “đội quân thứ năm” được cài cắm trong hệ thống chính trị của nước
sở tại. Công cụ để tiến hành hoạt động phản kháng phi bạo lực là bộ máy truyền
thông rộng khắp, trước hết là mạng xã hội Facebook hay Twitter...
Nắm rõ bản chất của học thuyết
phản kháng phi bạo lực là vấn đề rất quan trọng để giữ vững ổn định chính trị ở
các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Đối với công dân Việt Nam,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, nắm chắc thực chất của học
thuyết phản kháng phi bạo lực để có "sức đề kháng" trước âm mưu, thủ
đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; cũng như góp phần
ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thoái tư tưởng chính trị, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ; thực hiện bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa từ sớm, từ xa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét