Một trong những thủ đoạn thâm độc
mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị thường sử dụng để
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới mục
tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ hiện hành
trên đất nước ta. Do đó, nhận diện, bóc trần thủ đoạn này là một nội dung căn cốt
trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Có thể khẳng định, giữa tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin có mối quan hệ biện chứng, được thể hiện
trên 3 phương diện chính sau đây.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác -
Lênin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình tìm đường cứu nước,
bằng sự nhạy cảm chính trị và khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý lớn của thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cung cấp cho Người nhân sinh quan cách mạng, thế giới quan, phương pháp luận
khoa học và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, Người tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và
kinh nghiệm thực tiễn để hình thành nên “một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất”
Tuyên bố đi theo “chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”([1]), Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo. Nếu chủ nghĩa Mác
- Lênin lấy giai cấp công nhân làm vũ khí “vật chất”, giai cấp công nhân lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí tinh thần”, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí không gì thay thế được”([2]) cho
nhận thức và hành động của mình. Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, Người sẽ
không thể vượt khỏi những hạn chế của những sĩ phu Việt Nam yêu nước thời trước;
tư tưởng của Người không thể mang đầy đủ đặc tính khoa học, cách mạng, nhân
văn; con đường cứu nước mà Người vạch ra không thể trở thành con đường “bách
chiến, bách thắng” như trên thực tế đã diễn ra. Có thể nói, dù tư tưởng Hồ Chí
Minh được hình thành dưới sự tác động của nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan, cả tiền đề lịch sử và tiền đề tư tưởng, hội tụ
truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng quan trọng nhất,
quyết định nhất vẫn là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin
nhưng thấu hiểu đặc tính “mở” của hệ thống lý luận ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không tiếp thu theo lối giáo điều, sách vở, không bị trói buộc trong cái “vỏ”
ngôn từ mà nắm lấy “cái thần”, cái “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lênin
là phép duy vật biện chứng. Nắm vững nguyên tắc thực tiễn của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người nhận thức rõ sự khác biệt giữa xã hội Việt Nam và xã hội
phương Tây nên đã khẳng định: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết
lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”([3]). Sau này, Người
nói rõ hơn: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế
giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương,
chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm
cộng sản, cũng làm Xôviết”([4]).
Chủ tịch Hồ Chí Minh ít khi nói
đến các khái niệm, phạm trù hay quy luật của triết học Mác - Lênin, nhưng Người
vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam một cách rất linh hoạt và từ chính thực tiễn đó, Người rút ra nhiều kết
luận mang tầm chân lý nhưng lại rất dễ hiểu để bổ sung, làm giàu cho chủ nghĩa
Mác - Lênin. Với tư duy sáng tạo, Người đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên một loạt vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng
dân tộc cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh
trở thành dòng chảy tiếp nối chủ nghĩa Mác - Lênin trong một thời đại mới và
không gian mới. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Người đã làm cho học thuyết
Mác - Lênin được “Việt Nam hóa”, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Người
cũng giúp dân tộc ta thoát khỏi tâm lý thụ động để phát huy truyền thống tự lực,
tự cường và nhờ đó, cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại. Người
đã để lại bài học lớn: Chủ nghĩa Mác - Lênin là “kim chỉ nam” cho hành động
cách mạng nhưng không phải là khuôn mẫu, là “linh đan kê sẵn”; nếu biến lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin thành “kinh thánh” và công thức sáo mòn thì tức là đã
gạt bỏ nó ra khỏi thực tiễn không ngừng biến đổi. Vì thế, người trung thành nhất
phải là người sáng tạo nhất.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét