Trong các luận điệu chỉ
trích Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, có thể thấy các lập luận
đã cố tình tập trung vào vế đầu của “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” năm
1948, khẳng định tự do tư tưởng, tự do xuất bản là quyền cơ bản của con người,
mà bỏ đi vế sau là quyền tự do đó nằm trong khuôn khổ pháp luật và thể chế mỗi
quốc gia.
Thay vì xem xét các mối
quan hệ giữa Hiến pháp, pháp luật và hoạt động báo chí thực tiễn, các thế lực
thù địch, thiếu thiện chí chỉ tập trung vào các vụ việc và cá nhân cụ thể để
xuyên tạc về tự do ngôn luận, tự do báo chí của Việt Nam. Khái niệm mà họ sử dụng
chính là "ngôn luận tự do", "báo chí tự do", gần với khái
niệm tự do tuyệt đối, không có giới hạn.
Tổ chức Phóng viên không
biên giới (RSF) nhiều năm gần đây xếp Việt Nam ở vị trí gần cuối bảng xếp hạng
về tự do báo chí của 180 quốc gia, với những lý do chủ yếu là “đàn áp các
blogger”, “bắt giam các nhà báo”, nhưng trong những vụ việc này, các đối tượng bị
bắt giữ đều có hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ để đưa tin sai sự thật,
tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước, xuyên tạc tình hình kinh tế-xã hội ở
Việt Nam.
Trên một kênh truyền
thông ở hải ngoại thiếu thiện chí, khi bình luận về Việt Nam gần đây, có một
bài viết về bảng xếp hạng của RSF. Nhưng tổ chức RSF lại không đưa ra được khái
niệm hay cách hiểu nào về tự do báo chí. Nếu họ cho rằng không thể bắt giữ các
nhà báo và cho rằng không ai đáng bị bắt vì lý do tham gia ngôn luận, thì có lẽ
họ đã bỏ qua hoàn toàn việc hoạt động báo chí phải nằm trong khuôn khổ pháp luật.
Với cách lập luận như vậy, họ đang cổ xúy cho ngôn luận tự do, báo chí tự do mà
không chịu bất cứ trách nhiệm xã hội nào.
Trong vụ việc bắt giữ một
nữ nhà báo gần đây, có thể thấy rõ trong thời gian dài, nhà báo này đã công
khai chỉ trích nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trên trang cá nhân của
mình, như Công ty Cổ phần Đại Nam, Quỹ Sống Foundation, Mạng lưới Tự kỷ Việt
Nam... với lời lẽ nặng nề nhưng không có căn cứ xác đáng. Núp dưới chiêu bài
“nêu nghi vấn”, “đặt dấu hỏi”, “phân tích giả định”, “đấu tranh chống tiêu cực”,
nhà báo này đã tùy tiện đưa ra những thông tin có nhiều dấu hiệu quy chụp, phán
xét không khách quan, sai sự thật, bất chấp luật pháp và đạo lý.
Ngôn luận tự do dựa theo
những phán đoán, suy diễn chủ quan, ác ý đã dẫn một người từng là nhà báo kiêm
luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì lợi dụng quyền tự do dân chủ để
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khác. Một số nhà báo,
luật sư, người dùng mạng xã hội khác bị bắt cũng có chung vi phạm pháp luật như
vậy.
Khi phê phán, chỉ trích
Việt Nam không có tự do ngôn luận và tự do báo chí, các thế lực thù địch cũng
không chỉ ra được điều luật nào, quy định nào ngăn cản tự do của nhà báo, mà có
xu hướng áp đặt hình mẫu phương Tây cho Việt Nam. Đó là một cách tiếp cận không
có cơ sở khoa học. Nội hàm của tự do ở mỗi quốc gia, mỗi thời điểm có thể giống
nhau về phổ quát, còn lại sẽ mang đặc điểm của mỗi thể chế chính trị-xã hội. Thực
chất, không có nơi nào có tự do tuyệt đối, đây chỉ là một khái niệm mang tính
tương đối và có sự phát triển trong các nền tảng xã hội khác nhau.
Như vậy, ngôn luận tự do,
báo chí tự do theo cách mà các thế lực thù địch tuyên truyền là đề cao tư tưởng
của các cá nhân, không đi kèm trách nhiệm và các khuôn khổ luật pháp, đạo đức
xã hội, không quan tâm hoặc xem nhẹ những hệ quả gây ra cho xã hội, cộng đồng.
Điều đó khác rất xa với tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính có trách nhiệm
với sự phát triển tiến bộ của xã hội và nhân loại./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét