Vốn dĩ tự do là quyền cơ
bản của con người, nhưng cùng với đó là nhận thức và hành xử phù hợp với cộng đồng,
quốc gia, dân tộc, để tôn trọng quyền tự do của người khác và tuân thủ pháp luật.
Điều 29 trong “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” năm 1948 của Liên hợp quốc
nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các
quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy
nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người
khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và
phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Tự do ngôn luận và tự do
báo chí là hai khái niệm trong cùng lĩnh vực, chỉ khác nhau về cấp độ. Báo chí
là diễn đàn trong một xã hội phát triển, để mọi công dân, mọi tầng lớp, mọi độ
tuổi, giới tính, ngành nghề khác nhau được quyền phát ngôn, bày tỏ tư tưởng, ý
kiến, thể hiện hành động và báo chí trở thành nơi mà tự do ngôn luận thể hiện tập
trung, mạnh mẽ và được lan tỏa nhiều nhất.
Cũng chính vì thế, tự do
báo chí trở thành mối quan tâm đặc biệt ở mọi nơi, mọi quốc gia, mọi thể chế
chính trị-xã hội. Dù ở nền báo chí tư bản hay báo chí xã hội chủ nghĩa, thì báo
chí đều có những chức năng chung như: Thông tin, phản ánh, hình thành và định
hướng dư luận xã hội, giáo dục, giải trí...
Những chức năng cơ bản
này tạo ra cho báo chí một trách nhiệm xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển
chung của xã hội, hướng tới những giá trị hạnh phúc phổ quát của con người. Vì
vậy, khi thực hiện quyền tự do báo chí cũng phải gắn với các chức năng đó,
không đi ngược lại các giá trị chân lý, đạo đức, văn hóa, không chống lại an
ninh chung của cộng đồng, không trái với xu thế tiến bộ của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có lời giải thích rất rành mạch về tự do ngôn luận, tự do báo chí như sau: “Tự
do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý... Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái
gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”. Như vậy,
có thể thấy, tự do báo chí chân chính phải đặt trên nền tảng một xã hội dân chủ,
tốt đẹp, nhân văn, mọi hoạt động báo chí đều phục vụ lợi ích của đông đảo nhân
dân.
Không có tự do báo chí thuần
túy, tuyệt đối, đứng bên ngoài xã hội, cộng đồng, thể chế chính trị và bị bóp
nghẹt trong chế độ độc tài, khi nhà cầm quyền đã trở thành vật cản bước tiến xã
hội. Không có quyền nào vượt lên ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển
xã hội do chế độ kinh tế đó quy định. Chỉ có tự do báo chí trong xã hội dân chủ,
khi giai cấp cầm quyền có vai trò tiến bộ dẫn dắt xã hội.
Trong thực tiễn, hầu hết
mọi thể chế chính trị khác nhau đều coi việc chống lại nhà cầm quyền là vi phạm
pháp luật và không có nơi nào có văn bản coi tự do ngôn luận, tự do báo chí là
quyền tuyệt đối. Khi là Tổng thư ký Liên hợp quốc, ông Ban Ki-moon từng nói: “Tự
do ngôn luận được bảo vệ khi nó được sử dụng vào mục đích công lý và cộng đồng...
Khi một số người sử dụng quyền tự do này để khiêu khích hoặc sỉ nhục các giá trị
niềm tin của người khác thì hành động đó sẽ không được bảo vệ”./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét