Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn nhất quán tư duy độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và đường lối đối ngoại Việt Nam “đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Trong thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống và bản sắc ngoại giao đó càng được bồi đắp, phát huy, tỏa sáng.
Từ khi đổi mới
đến nay, Đảng ta không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan điểm, phương châm của đường
lối đối ngoại, đó là: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội VII); “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” (Đại
hội IX); “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế” (Đại hội XI, Đại hội XII).
Đại hội XIII
tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Những năm
qua, trước các diễn biến phức tạp của thời cuộc, quan hệ ngoại giao của Việt
Nam đã góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Quan hệ ngoại
giao của Việt Nam với một số nước lớn tuy có lúc trải qua thăng trầm nhưng hợp
tác hữu nghị vẫn là dòng chảy chính. Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn coi
trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước láng giềng,
trong đó có Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam kiên quyết sử dụng mọi biện pháp phù hợp
với luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền
lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc; đồng thời quyết tâm, kiên trì, kiên quyết giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều này luôn được cộng
đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ.
Đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng, Nhà nước ta nói
chung, trong đó có chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không” nói riêng là kết
tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta. Đường lối đó có cơ sở lý luận, khoa học, thực tiễn, cơ sở pháp lý vững chắc,
có sự tham khảo ý kiến của các tầng lớp nhân dân một cách dân chủ, công khai.
Thực tế cho
thấy, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước, đặc biệt là các nước lớn luôn
có xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật
Bản, Ấn Độ... Do đó, những luận điệu cho rằng việc “đi theo”, “liên minh” với
nước này để chống nước khác nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo không những
phản động, sai lầm mà còn thể hiện tư tưởng yếu hèn, trái với phương châm đối
ngoại thêm bạn, bớt thù của Đảng ta.
Để giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, trước hết cần bảo đảm tuyệt đối vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác ngoại giao. Đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các
nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội, được thể hiện sâu
sắc trong các văn kiện đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới. Thực tiễn đã minh chứng,
đường lối, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa giúp Việt Nam tạo dựng
một mạng lưới quan hệ rộng khắp, tranh thủ được nhiều yếu tố thuận lợi cho công
cuộc phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế.
Trong tình
hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, cần tăng cường hiệu quả
công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia
đối ngoại trong nghiên cứu, tham mưu, đóng góp vào việc xây dựng chính sách và
triển khai đường lối đối ngoại của Đảng. Tích cực đổi mới nội dung, phương thức
thông tin đối ngoại, ứng dụng hiệu quả thành tựu công nghệ thông tin, truyền
thông để tăng cường thông tin, quảng bá về đất nước, con người, thành tựu của
Việt Nam và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
Cùng với những
giải pháp căn cơ trên, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cần chủ động
phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động
chống phá đường lối đối ngoại của Đảng. Kiên quyết không để các thế lực thù địch,
cơ hội tập hợp lực lượng, gây rối chính trị, làm mất an ninh trật tự, gây rối
loạn lòng dân, ảnh hưởng tới lợi ích đất nước.
Tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền
hình, internet, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Twitter, Telegram...), các cuộc hội
thảo, hợp tác nghiên cứu khoa học xã hội về những vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân
chủ, nhân quyền, đối ngoại...
Tuyệt đối
không để xảy ra sơ hở khiến kẻ thù có thể lợi dụng xâm nhập, thu thập bí mật,
phủ nhận, truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch, kích động, xuyên tạc phá hoại
đường lối đối ngoại đúng đắn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét