Theo dòng lịch sử, tiền thân của tổ chức Fulro đã có từ thời đất nước
ta còn chưa sạch bóng ngoại xâm. Với chủ trương đấu tranh bất bạo động yêu cầu
chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam
của nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ngày 1/5/1958, một số trí thức người Tây
Nguyên (từ dùng của thời kỳ đó là: người Thượng), do ông Y Bham Ênuôl người Êđê
chủ xướng đã thành lập một tổ chức có tên gọi BaJaRaKa. Mục tiêu kết nối các sắc
tộc được cho là mạnh nhất và sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên, BaJaRaKa là chữ viết
tắt tên của bốn dân tộc chủ yếu: Bahnar (người Ba Na), Djarai (người Gia Rai),
Rhadé (người Êđê) và Kaho (người Cờ Ho).
Chỉ hai tháng kể từ ngày thành lập, với chữ ký của ông Y Bham Ênuôl,
ngày 25/7/1958, BaJaRaKa gửi thư đến Tòa đại sứ Pháp, Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc
tố cáo những hành vi phân biệt sắc tộc của nhà cầm quyền và yêu cầu các cường
quốc can thiệp để người Thượng được độc lập trong khối Liên hiệp Pháp hoặc dưới
sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Tiếp đó, các tháng 8 và 9 của năm này, BaJaRaKa tổ chức
nhiều cuộc biểu tình thỉnh nguyện tại Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku nhưng các
cuộc biểu tình này đều bị trấn áp. Tất cả những người được cho là lãnh đạo của
phong trào này đều bị bắt, trong đó có ông Y BhamÊnuôl.
Trước đó, từ năm 1956, thực thi mục tiêu chống cộng ráo riết, triệt để
của Hoa Kỳ, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng, đào tạo và trang bị vũ
khí cho thanh niên Thượng. Họ tổ chức thành các đội Dân sự chiến đấu Thượng
(Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) và Lực lượng Đặc biệt. Cuộc đảo chính
của phe quân sự dưới sự hỗ trợ của CIA đã lật đổ chính thể họ Ngô vào năm 1963,
với sự kiện này, tất cả những người lãnh đạo của BaJaRaKa được trả tự do. Sau
đó, nhằm giảm bớt sức ép chính trị, đồng thời thực hiện mưu đồ “dùng người Thượng
cai trị người Thượng”, nhà cầm quyền Sài Gòn đã bổ nhiệm một loạt các thủ lĩnh
của phong trào này vào các chức vụ chủ chốt ở các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó,
ông Y Bham Ênuôl trở thành phó tỉnh trưởng tỉnh Đắk Lắk, ông Paul Nưr là phó tỉnh
trưởng tỉnh Kon Tum. Tháng 3/1964, một lần nữa được sự ủng hộ của người Mỹ, những
người lãnh đạo BaJaRaKa kết hợp với các sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại
duyên hải miền Trung thành lập “Mặt trận Giải phóng Cao nguyên” (FLHP). Thế
nhưng, ngay từ khi thành lập, “mặt trận” này đã phân chia thành hai phe đối nghịch
nhau: phe ôn hòa do Y Bham Ênuôl đại diện và phe chủ trương bạo động do Y Dhơn
Adrong cầm đầu.
Từ tháng 3 đến 5/1964, phe bạo động trong FLHP bị quân đội Sài Gòn mở
các chiến dịch truy quét gắt gao phải chạy qua Campuchia lập căn cứ tại tỉnh
Mondulkiri, cách biên giới nước ta 15 km. Tại căn cứ này, họ tiếp tục tuyển mộ
thanh niên Thượng tham gia FLHP chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày
19/9/1964, các toán biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt và các đội Dân sự chiến
đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (nay là Đắk Nông) và Đắk Lắk
giết chết 35 binh sĩ ngụy, bắt sống quận trưởng Đức Lập; đánh chiếm Đài Phát
thanh Buôn Ma Thuột và kêu gọi người dân tham gia nổi dậy thành lập quốc gia độc
lập. Sau đó, một cuộc thương lượng có sự hiện diện của quan chức Tòa đại sứ Mỹ
đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham Ênuôl được cử làm Chủ tịch chính thức phong
trào FLHP; tuy nhiên ngay trong chiều 20/9/1964, ông ta đã trốn sang Campuchia.
Thỏa thuận thứ hai là những người Thượng chỉ huy đợt tập kích này không bị truy
tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Campuchia…
Như một cơ hội đã chín muồi cho một âm mưu lâu dài, cuộc thương lượng
dưới sự “chủ trì” của người Mỹ chính là “bà đỡ” đảm bảo cho sự ra đời của một
thế lực chính trị mới theo đúng ý đồ và sự sắp đặt của họ. Ngày 20/9/1964, tại
Campuchia, “Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức” được thành
lập (Front Uni de Lutte des Races Opprimées, viết tắt là FULRO - đọc theo tiếng
Pháp). Mặt trận này bao gồm các thành phần: Mặt trận Giải phóng Champa (Front
de Libération du Champa, FLC) tức Fulro Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù
người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo; Mặt trận Giải phóng xứ Campuchia Krom miền Tây
Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức Fulro Khmer, do
Chau Dera làm đại diện và Mặt trận Giải phóng Cao nguyên (Front de Libération
des Hauts Plateaux, FLHP) tức Fulro Thượng, do Y Bham Ênuôl cầm đầu. Fulro đã tự
“sản xuất” một lá cờ (hiệu kỳ) hình chữ nhật gồm ba sọc: màu xanh biển (tượng
trưng cho biển cả), màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh) và màu xanh lá cây (màu của
rừng núi). Trên dòng sọc đỏ có ba ngôi sao trắng tượng trưng cho ba mặt trận của
Fulro: Champa, Thượng và Campuchia Krom. Fulro có ba cơ quan lãnh đạo: Hội đồng
Tối cao do Chau Dera làm Chủ tịch, Hội đồng Bảo trợ do Les Kossem làm Chủ tịch,
và Ủy ban Chấp hành Trung ương do Y Bham làm Chủ tịch. Trong thực tế, vào thời
điểm này, Y Bham Ênuôl không có thực quyền, người nắm hết mọi quyền hành chính
là Les Kosem. Trong khi đó, nhóm Fulro Thượng do Y Bham Ênuôl làm chủ tịch vẫn
bị phân hóa thành hai như còn thời BaJaRaKa: nhóm dân sự ôn hòa do Y Bham Ênuôl
lãnh đạo tiếp tục chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam
Cộng hòa để Fulro Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức; ngược
lại, nhóm vũ trang do Y Dhơn Adrong cầm đầu vẫn kiên quyết chủ trương dùng bạo
lực để thành lập một quốc gia độc lập của người Thượng trên cao nguyên…
Ngay sau ngày vui lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen
ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, đồng bào Tây Bắc; đồng thời căn dặn
quân và dân ta chớ kiêu ngạo, khinh địch… thể hiện tầm nhìn và dự báo chiến lược
của Bác đối với cách mạng nước ta. Khắc ghi lời Bác dạy, quân và dân ta luôn
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không chủ quan, khinh địch, không tự
kiêu, tự đại với những chiến công và thành tích, đã viết tiếp vào trang sử vàng
dân tộc một chiến thắng vĩ đại trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, thu giang sơn về
một mối, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.
Năm 1975, chế độ ngụy quyền
sụp đổ, Fulro - dưới sự giật dây, hỗ trợ của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức
quấy phá chống lại nước ta. Từ đầu năm 1975 đến năm 1977, Fulro tiếp tục tuyên
truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Một tên
thủ lĩnh khác là Y Djao Niê tổ chức lại Fulro, đồng thời kêu gọi các nước Anh,
Pháp, Mỹ và Liên hiệp quốc viện trợ. Từ năm 1982 - 1985, Fulro được các thế lực
quốc tế và tàn quân Pôn Pốt tiếp sức, củng cố căn cứ ở Mondulkiri và đưa được
các toán đặc biệt về vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lập “mật
cứ” đón gián điệp, biệt kích, lực lượng lưu vong trở về như Võ Đại Tôn, Hoàng
Cơ Minh và các toán phản động khác. Trong thời gian từ năm 1979 - 1985, hoạt động
Fulro đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp, buôn làng, giết hại nhiều
cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. Nhưng lực lượng công an, quân đội ta
được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác nghiệp vụ, đấu
tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm Fulro và đưa họ
trở về với cộng đồng.
Ở Tây Nguyên, cuối thập niên 80, không còn mấy ai nhắc đến Fulro nữa.
Cho đến năm 1992, vấn đề Fulro lại xuất hiện ở khu vực biên giới Thái Lan -
Campuchia. Năm 1994, khi Liên hiệp quốc đưa lực lượng quốc tế UNTAC vào thực hiện
giải pháp chính trị ở Campuchia, Fulro không còn chỗ dựa. Với sự chấp thuận của
Mỹ, tháng 12/1992, toàn bộ số Fulro còn lại gồm 407 tên do Y Pênh Ayun cầm đầu
đã ra hàng UNTAC, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí
và được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado…
Fulro là một tổ chức phản động, một tổ chức tội ác. Tổ chức đó đã bị
xóa sổ trước tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của quân và dân ta trong công cuộc
bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và cuộc sống bình yên của nhân
dân. Thế nhưng, tàn dư của nó vẫn còn khi vẫn còn đó những thế lực thù địch, những
âm mưu đen tối chống phá đất nước và nhân dân ta. Lật lại hồ sơ Fulro, chúng
tôi muốn gửi đến bạn đọc những thông tin dù đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng
bài học cảnh giác thì luôn tươi mới./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét