Trong khi dư
luận nói nhiều đến tình trạng cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, không dám làm
khiến hàng loạt công việc đình trệ thì một hiện tượng khá phổ biến và cũng là
“trọng bệnh” của đội ngũ cán bộ, công chức, đó là tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm
với công việc, nhất là giải quyết công vụ. Đây là vấn đề đáng lo ngại bởi những
hệ lụy mà nó gây nên.
Có việc liên
quan đến giấy tờ nhà đất tôi buộc phải đến Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả giải
quyết thủ tục hành chính (Bộ phận một cửa) của xã để thực hiện. Khu vực chờ đợi
của người dân đông đúc, ngột ngạt, cũng không có nước uống. Để tiết kiệm thời
gian, người dân chủ động phần kê khai trên hồ sơ trước nhưng bàn viết
không có, cứ tự kê lên đùi mà viết. Cán bộ giải quyết công vụ ngồi ngăn cách với
người dân qua vách kính chắn, thỉnh thoảng lại đưa điện thoại lên nhắn tin, ai
thắc mắc thì hướng dẫn đại khái qua một ô kính nhỏ. Người có chút kinh nghiệm,
tai thính thì ít hỏi lại, còn phần lớn người đi làm thủ tục lần đầu đều bỡ ngỡ:
“Cái gì cơ? Viết vào đây ạ? Chỗ này viết gì anh, chị nhỉ? Rồi thỉnh thoảng lại
có tiếng gắt gỏng, khó chịu kiểu ban phát từ người nhận hồ sơ. Chỉ cách nhau
qua tấm kính mà cảm giác như công chức và người dân xa vời vợi. Theo nghĩa hiểu
chung nhất thì tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm nghĩa là mặc kệ. Đây là trạng thái
trơ lì của cảm xúc, dửng dưng với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ
quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Cách làm việc này không khác gì một cái
máy, không khẩn trương, không vội, không vì ai và đặc biệt, không cảm xúc.
Tựu trung lại,
có thể lý giải cho hiện tượng tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc của
cán bộ, công chức đến từ mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là lối sống
thực dụng, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Lối sống này khiến cán bộ,
công chức có nhận thức và hành vi lệch lạc về trách nhiệm, về nghĩa vụ của
mình, nhất là trong vai trò "công bộc" khi tiếp xúc và hành xử với
dân; cho rằng mình có quyền ban phát, người khác phải cần mình mà không hiểu rằng,
nghĩa vụ của mình là phục vụ, cao nhất là phục vụ nhân dân. Thứ hai, đó là
những người luôn đòi hỏi cho cá nhân, nhất là lợi ích vật chất nhưng không bao
giờ chịu hy sinh, thiệt thòi vì tập thể. Khi không được đáp ứng lợi ích đó, họ
cứ dửng dưng không làm. Thứ ba, đó là những người thụ động. Mọi thứ với họ
cứ làng nhàng, từ học hành, kiến thức, kỹ năng đến động cơ, thái độ, trách nhiệm
trong công việc. Thứ tư, đó là những người có xuất thân từ những gia đình có điều
kiện, hoặc về kinh tế,
hoặc về chính trị. Họ chỉ cần có một chỗ làm việc, một vị trí trong cơ quan
công quyền để lấy vị thế và được bảo đảm các quyền lợi cho cá nhân. Những người
như thế cũng không mưu cầu sự thăng tiến, cũng không có động lực phấn đấu cho
công việc. Việc làm giàu của họ thường ở môi trường khác, hoặc có người khác
làm giàu cho họ.
Tâm lý,
thái độ thờ ơ gây ra bệnh vô cảm của công chức, một loại bệnh đang được xem là
“trọng bệnh”. Ngành y không có khái niệm bệnh vô cảm nên cũng không đưa ra phác
đồ điều trị. Đây là căn bệnh do lối sống, môi trường và cách hành xử của con
người tạo ra. Hệ lụy của tình trạng thờ ơ, vô cảm của công chức là vô cùng tệ hại,
mà tệ hại nhất là thủ tiêu động lực làm việc, vươn lên của tập thể. Trong một tập
thể có những người thờ ơ, vô cảm với công việc thường dễ lây lan tâm lý này
sang những người khác. Bởi nếu anh “sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội” mà không bị
xử lý thì tôi cũng sẽ thế được, dần trở thành tâm lý đám đông. Khi con người
không có động lực làm việc, giải quyết công việc không vì người khác thì sẽ
không bao giờ dành hết trí lực cho công việc, không có tư tưởng nghĩ ra việc,
tìm đến việc. Tệ hại là, số cán bộ, công chức thờ ơ, vô cảm, làng nhàng này lại
không dễ gì đưa họ ra khỏi bộ máy công quyền. Trên thực tế, nghiên cứu khái
quát của các nhà quản lý trong lĩnh vực công chức, viên chức đưa ra con số khoảng
30% cán bộ, công chức “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”. Xin dẫn lại một phát biểu
năm 2013 của Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khi ấy tại cuộc họp thứ
nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức: “Trong bộ
máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo
kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc
nào”. Điều này khiến cho bộ máy công quyền cồng kềnh trong khi công việc vẫn bị
xem là chưa chạy. Trong khi đó, ngân sách nhà nước để nuôi bộ máy là không hề
nhỏ mà đáng ra một phần số ngân sách này có thể tiết kiệm được.
Dưới chế độ của
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì cán bộ, công chức là công bộc của dân.
Cũng có nghĩa, mọi cán bộ, công chức phải hết lòng, hết mình trong giải quyết
công vụ, vì nhân dân phục vụ, tự mình đấu tranh với chính mình để loại bỏ tâm
lý, thái độ thờ ơ, vô cảm, cách làm việc làng nhàng không hiệu quả. Trở lại từ
lý luận, Các Mác từng có một luận điểm mang tính kinh điển, đã trở thành nền tảng,
cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người: “Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận
điểm này đã được ông luận giải một cách rất thuyết phục. Những cán bộ, công chức
và chính mỗi người có tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc nguyên nhân
chính là do họ và họ là người quyết định điều đó trong môi trường đó. Môi trường
làm việc rất quan trọng và có tác động lớn đến tình cảm, thái độ, trách nhiệm của
mỗi người. Con người trong tập thể nếu không chịu va đập, không bị va đập,
không qua trải nghiệm, gắn mình với thực tiễn sẽ ngày càng thờ ơ và ít sự cảm
thông trong đời sống xã hội. Bởi thế, ở đâu môi trường làm việc yêu cầu cao, sự
nghiêm túc, trách nhiệm, sự đánh giá công tâm, công bằng, thì ở đó mỗi cán bộ,
công chức sẽ có động lực để thay đổi mình, buộc phải thay đổi mình.
Từ thực tiễn,
chính các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước phải đánh giá đúng thực
chất hiệu quả công việc của công chức do mình quản lý. Ai cũng thấy nhiều cán bộ,
công chức làm việc không hiệu quả theo kiểu “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về” diễn
ra ở các cơ quan công quyền nhưng tỷ lệ báo cáo đánh giá chất lượng cán bộ,
công chức hằng năm của hầu hết các cơ quan, đơn vị thường trên 90% hoàn thành tốt
và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều cơ quan, tỷ lệ này rất cao, thậm chí gần
100%. Chính việc đánh giá cán bộ không đúng, phân loại nể nang, không bám vào
tiêu chí đã dẫn đến tình trạng “đánh bùn sang ao”, cán bộ làm tốt cũng như chưa
tốt. Bất cập này khiến người làm tốt bị mất động lực phấn đấu, trong khi người
chưa hoàn thành, hoàn thành thấp nhiệm vụ vẫn nghiễm nhiên tại vị, vẫn được hưởng
đầy đủ các chế độ của một công chức. Và đương nhiên, họ cũng không có động lực
để thay đổi chính mình. Dù Luật Cán bộ, công chức quy định nếu cán bộ hai năm
không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ loại ra khỏi đội ngũ nhưng trên thực tế hằng
năm vô cùng ít cán bộ bị loại khỏi bộ máy công quyền với lý do là không hoàn
thành nhiệm vụ. Vậy nên, cốt lõi để làm cho mọi cán bộ, công chức thay đổi thái
độ, trách nhiệm làm việc của mình thì tổ chức phải đánh giá đúng hiệu quả công
việc của họ.
NVH - KBC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét