Cao Xuân Nguyên - H2
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công
rất tốt đẹp, là dấu son quan trọng trong lịch sử vẻ vang của Đảng ta, dân tộc
ta. Đại hội XIII lần đầu tiên đề cập đến “khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”. Đây là một điểm mới, điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội
sinh và phương thức phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội xác định
một trong những quan điểm chỉ đạo là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam…”.
1.
Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ
trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đại
hội XIII thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng
ta với mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập
cao. Tuy nhiên, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù
địch vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lu loa cho rằng:
đó là một “khẩu hiệu trống rỗng”, “nặng tính duy tâm, siêu hình”. Chúng lý
sự rằng, “khát vọng” là yếu tố tinh thần; trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam
nhiều lần đề cập và nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII (từ chủ đề Đại hội, quan
điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm,
đột phá chiến lược) thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh
thần cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nên là một quan điểm duy tâm,
siêu hình; đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng cũng “gào
lên” cho chủ trương đó là “phi thực tế, phản khoa học”, là biểu hiện
“chủ quan, nóng vội, duy ý chí” của Đảng cầm quyền. Chúng còn mạnh miệng bảo
rằng chủ trương đó chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”, “không có tính khả
thi”; Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “đánh trống bỏ dùi”, không có kế hoạch và biện
pháp triển khai cụ thể, hữu hiệu…
Trong
khi đó, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới biến động rất
nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày
càng gay gắt; xung đột Nga - Ukraine kéo dài; lạm phát thế giới tăng cao, hậu
quả của đại dịch COVID-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro
tài chính, tiền tệ, mất an ninh năng lượng, lương thực đang hiện hữu… Ở trong
nước, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết; trong khi đó, dịch
bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh
và đời sống của nhân dân. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng điên
cuồng chống phá chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lớn tiếng cho rằng chủ trương này chỉ là cái bánh
vẽ, không thể thành hiện thực… hòng đánh lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của
nhân dân ta; kích thích tâm lý bi quan, mơ hồ, chán chường của một bộ phận
người dân nhẹ dạ cả tin; kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và uy tín của
đất nước ta trên trường quốc tế.
2.
Luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước
những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần tỉnh táo,
cảnh giác cao và nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng
chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc
trên con đường phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Chúng ta có thể khẳng định: chủ
trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng
ta là đúng đắn, khoa học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục.
Thứ
nhất, khát vọng phát triển đất nước có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc
biệt.
Đối
với Việt Nam, khát vọng phát triển đất nước thật sự là sức mạnh nội
sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến
tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, bắt
nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong thời đại Hồ Chí
Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đập tan ách
áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng
mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công oanh liệt đó khởi nguồn từ khát
vọng mãnh liệt của dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Hiện nay, khát vọng phát triển giàu mạnh,
hùng cường là một động lực thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo,
lạc hậu, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Rõ
ràng, Đảng ta không tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát
triển đất nước mà xác định đây là một trong những động lực cho đổi mới, phát
triển; là động lực thúc đẩy chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng
quyết định của yếu tố kinh tế, vật chất, kỹ thuật.
Thứ
hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trên cơ sở cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín đất nước.
Trong
nhiệm kỳ Đại hội XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện. Kinh
tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chất lượng tăng trưởng
được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm. Quy mô nền kinh
tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và
thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Năng suất lao động tăng từ
4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Lĩnh
vực văn hóa, xã hội của đất nước đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản
được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đến năm 2020, Việt Nam
đã đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình
quân đầu người còn ở hạng ngoài 100.
Sau
35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Kinh tế phát triển, chính trị - xã hội ổn định; văn hóa - xã hội có bước
phát triển, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Nếu năm 1988, thu nhập bình
quân đầu người của nước ta mới chỉ đạt 86 USD/người/năm thì đến năm 2020 Việt
Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu
nhập bình quân gần 2.800 USD/người. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng
đi vào chiều sâu; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững.
Thứ
ba, chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là “ý Đảng” hợp “lòng
dân”.
Quá
trình chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIII, các Tiểu ban đã phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan ở Trung ương và địa phương tổ chức gần 60 hội nghị, hội
thảo, toạ đàm; thành lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các
đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các
chuyên gia; tổ chức tọa đàm với một số tổ chức quốc tế, 2 đoàn đi khảo sát,
nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để
thảo luận, thông qua Đề cương và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp
nhiều lần để cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý
kiến Ban Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và
15. Các dự thảo Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi
xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ quan, đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định
cho công bố công khai toàn văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng để lắng nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân. Đã có hàng triệu lượt
ý kiến đóng góp vào dự thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương;
các ý kiến đóng góp được tổng hợp lại thành 1.410 trang.
Thứ
tư, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước được thể chế hoá thành những mục
tiêu, tầm nhìn “trăm năm” và những kế hoạch, chương trình cụ thể.
Văn
kiện Đại hội XIII đã xác định “những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước
ta trong những thập niên sắp tới: Đến năm 2025: Là nước đang phát
triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao”.
Giai
đoạn hiện nay, Việt Nam xác định chỉ tiêu: Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo
giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến,
chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; tỷ lệ đô thị hóa đạt
trên 50%. Về xã hội, Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74; tuổi
thọ bình quân đạt 75 tuổi; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ
đạt 35 - 40%. Về môi trường, tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42%; 100% các cơ sở sản
xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường.
Thứ
năm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước bước đầu được minh chứng với kết
quả sinh động của đất nước từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay.
Việt
Nam đã nỗ lực duy trì, phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều điểm
sáng tích cực. Năm 2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,58%; thu ngân sách nhà nước
tăng 16,4%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD
(đưa Việt Nam trở thành 1 trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về
thương mại). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tương đương 34,4% GDP, tăng
1,2% so với năm 2020. Nông nghiệp tiếp tục giữ được vai trò là trụ đỡ của nền
kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực; xuất khẩu nông sản đạt 48,6 tỷ USD.
Năm
2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất trong hơn 10 năm
qua; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách nhà
nước vượt 26,4% dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021. Tổng kim ngạch xuất, nhập
khẩu đạt 732,5 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt trên 3,2 triệu
tỷ đồng, tăng 11,2%. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; xuất khẩu nông,
lâm, thủy sản đạt kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
gạo 7,12 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp tăng 7,69%. Khu vực dịch vụ
phục hồi mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tăng 19,8%.
Báo
cáo triển vọng kinh tế năm 2023 của Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM)
đưa ra 2 kịch bản: Ở kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế năm 2023 có thể đạt
mức 6,47%; xuất khẩu tăng 7,21% và thặng dư thương mại đạt 5,64 tỷ USD; lạm
phát sẽ ở mức 4,08%. Ở kịch bản 2, CIEM dự báo tăng trưởng kinh tế năm
2023 sẽ tích cực hơn, lên mức 6,83%; xuất khẩu tăng 8,43% và thặng dư thương
mại đạt 8,15 tỷ USD; lạm phát sẽ được kiểm soát ở mức 3,69%.
Quốc
phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; chủ quyền quốc gia, môi
trường hòa bình, ổn định tiếp tục được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển
đất nước. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, triển
khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đóng góp tích cực, hiệu quả, có
trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế
giới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét