Đỗ Hồng Quảng, Bộ môn Triết học
Về các nghị quyết chuyên đề, trước
hết phải kể đến Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990, của Bộ Chính trị, về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Tại nghị quyết này, nhiều
quan điểm về tôn giáo và chỉ đạo công tác tôn giáo của Đảng đã được đổi mới về
căn bản và mang tính “đột phá”, và lần đầu tiên được Đảng ta đưa ra. Đó là các
quan điểm:
1. Tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân và là vấn đề còn tồn tại lâu dài;
2. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới;
3. Nội dung cốt lõi của công tác
TG là công tác vận động quần chúng và kiên quyết đấu tranh chống các thế lực phản
động lợi dụng TG chống phá cách mạng.
Như vậy từ đây, quan điểm của Đảng
về tôn giáo và công tác tôn giáo đã chuyển chủ yếu từ nhận thức tôn giáo là chính
trị, là tiêu cực, là địch lợi dụng tôn giáo, sang tôn giáo là nhu cầu của nhân
dân, là lực lượng quần chúng của Đảng và tôn giáo có những giá trị tích cực. Nhận
thức của Đảng về tôn giáo như vậy là khách quan và toàn diện hơn so với trước
đây.
Đến Nghị quyết số 25 - NQ/TW, của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khóa IX, ngày 12/3/2003, về công tác tôn giáo, Đảng
ta một lần nữa lại thể hiện sự kế thừa đến cao độ quan điểm chính sách đối với
tôn giáo của Nghị quyết số 24 - NQ/TW. Từ chỗ khẳng định: hoạt động tôn giáo và
công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bào vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, Nghị quyết số 25 - NQ/TW đã chỉ ra 5 quan điểm chính sách đối với tôn
giáo:
Một là, Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc[1].
Thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Quan điểm chính sách này là sự đổi
mới rõ rệt, căn bản cả về lý luận và thực tiễn đối với tôn giáo và công tác tôn
giáo của Đảng ta hiện nay.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện
nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân
biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi
dụng, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Quan điểm chính sách này của Đảng
về tôn giáo đã xác định rõ mục tiêu của công tác tôn giáo thời kỳ đổi mới đất
nước, đồng thời khẳng định vai trò của tôn giáo và đồng bào tôn giáo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Nội dung cốt lõi của công
tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Quan điểm chính sách này cho thấy
vấn đề tôn giáo chính yếu ở nước ta là vấn đề quần chúng nhân dân - đối tượng
phát triển của Đảng và công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải toàn diện,
từ kinh tế, xã hội, chính trị đến văn hoá tinh thần.
Bốn là, Công tác tôn giáo là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
Công tác tôn giáo có liên quan đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt
công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách
nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với
các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ
thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Quan điểm này đã khẳng định tính
chất khách quan và quan trọng của công tác tôn giáo, đồng thời đòi hỏi mỗi tổ
chức cấu thành hệ thống chính trị phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, chức
năng cụ thể của mình trong công tác tôn giáo.
Năm là, Vấn đề theo đạo và truyền
đạo
Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các
tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được
pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu
hành, xuất bản kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo
theo đúng quy định của pháp luật.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ “Vận
động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp
đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho
các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ
được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các
nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu
tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc”[2]
[1] Đến Đại hội lần thứ X, năm 2005, Đảng
ta, ở nội dung về tín ngưỡng, tôn giáo trong Văn kiện Đại hội, đã bổ sung là: Đồng
bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
[2]
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG sự thật, H.2021, t1,
tr.171.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét