Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân ta
từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, tự do, dân chủ và làm
chủ vận mệnh của mình. Tuy nhiên, hòng chống phá Đảng, Nhà nước ta, các thế lực
thù địch, phản động luôn ra sức xuyên tạc, phủ nhận thành quả của cuộc Cách mạng,
nhất là những giá trị về dân chủ, tự do. Vì vậy, cần chủ động nhận diện và kiên
quyết đấu tranh bác bỏ.
Đã từ lâu, hằng năm, cứ vào dịp kỷ
niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động lại
tìm mọi cách tung ra những luận điệu cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận
thành quả của cuộc Cách mạng hòng hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Gần đây, khi các luận điệu cho rằng, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám là nhờ sự “may mắn”,… đã bị bác bỏ, họ lại đưa ra luận điểm: “Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân”, v.v.
Đây là luận điệu hết sức lố bịch, sai trái, xuyên tạc lịch sử. Song, dù có cố
tình chống phá, xuyên tạc, họ cũng không thể phủ nhận ý nghĩa to lớn cùng những
giá trị tự do, dân chủ đích thực mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mang lại
cho đất nước, dân tộc và nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đem
lại dân chủ thực sự cho người dân
Trước hết, phải khẳng định rằng,
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến
và ách đô hộ của thực dân, phát xít, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - chính thể dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Đây là điều kiện
tiên quyết để xác lập quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; dấu mốc của việc xác lập thể chế chính trị dân chủ nhân dân; đưa nước ta từ
một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ;
nhân dân ta từ thân phận nô lệ, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm
chủ, tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình. Đây là thành tựu nổi bật về
dân chủ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà không ai có thể phủ nhận.
Hai là, một trong những mục
tiêu quan trọng của Cuộc Cánh mạng Tháng Tám năm 1945 và là quan điểm nhất quán
của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tạo các
điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, công bằng xã hội, bình đẳng
thực sự giữa nữ và nam, giữa các giai cấp và dân tộc. Quan điểm đó được thể hiện
xuyên suốt trong nội dung các Cương lĩnh và văn kiện các kỳ đại hội của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp
luật bảo đảm”1. Quán triệt quan điểm đó, trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà
nước Việt Nam đều quy định: “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và được quy
định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhằm tạo cơ sở chính trị - pháp lý
để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, như:
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết liên tịch số
09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN, ngày 17/4/ 2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều
22, Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ngày
10/01/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Ba là, quyền làm chủ của
nhân dân không chỉ thể hiện trong các bản Hiến pháp, văn bản pháp luật, mà được
thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày; được đặt trong cơ chế tổng thể của
hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, thông
qua hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp, dân chủ ở cơ sở theo phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Theo đó, ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, giữ vai trò
quyết định sự tồn tại của nhà nước; mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý
xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện do mình lựa chọn; nhà
nước luôn tạo điều kiện bảo đảm vật chất và tinh thần để nhân dân thực hiện các
quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với
nhà nước và xã hội cũng như không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều
này được thể hiện rõ trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp, nhất là thời gian gần đây, tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao. Tỷ lệ
đại biểu là nữ, người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo trong Quốc hội ngày
càng nhiều. Việc đổi mới các phiên chất vấn của Quốc hội; thực hiện đối thoại
trực tuyến của Chủ tịch nước, của Thủ tướng Chính phủ,… với nhân dân; những cuộc
tiếp xúc của các đại biểu với cử tri chuẩn bị cho các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội
là minh chứng cho việc người dân thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đem
lại tự do thực sự cho người dân
Điều này được thể hiện trước
hết trong Tuyên ngôn thoái vị (ngày 30/8/1945) của vua Bảo Đại - vị vua cuối
cùng của chế độ quân chủ phong kiến Việt Nam, đã phải thốt lên rằng: “… làm dân
một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”. Đây là cảm nhận chân thực nhất của
vua Bảo Đại lúc đó. Bởi, Ông cũng như nhiều vị vua của triều đình nhà Nguyễn đã
phải nếm trải thân phận “Vua là tượng gỗ, dân làm thân trâu” của một nước nô lệ,
lầm than, cơ cực, mất tự do, không có tên trên bản đồ thế giới. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công đã hồi sinh đất nước Việt Nam, giành lại nền tự do, độc
lập mà dân tộc ta có quyền được hưởng. Hơn ai hết, Ông là người thấu hiểu được
giá trị của tự do thật sự do Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang lại cho đất nước,
cho dân tộc, cho nhân dân và cho cá nhân Ông.
Hai là, quyền tự do của nhân
dân Việt Nam được thừa nhận. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày
02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên
ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”2. Quyền tự do thật sự ấy là kết quả
đấu tranh, hy sinh biết bao máu xương của các thế hệ người Việt Nam yêu nước mới
giành được. Quyền tự do đó được Chính phủ Pháp, tại Hiệp định Sơ bộ ngày
06/3/1946, phải thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do
trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có
chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Mặc dù quyền tự do đó chưa
được trọn vẹn như chúng ta mong muốn, nhưng đó là nền tự do thực sự mà cả dân tộc
ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng bền bỉ đấu tranh mới giành được. Điều đáng nói
là, chính kẻ thực dân trước đây giày xéo đất nước ta, biến nước ta thành thuộc
địa, nhân dân ta thành nô lệ của chúng, nay đã phải công nhận quyền tự do, độc
lập ấy. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập:
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Khi lẽ phải đã thuộc về chúng ta,
thì hãy vững tin rằng, những bôi nhọ, xuyên tạc, bóp méo sự thật đó chỉ càng
làm cho lẽ phải thêm ngời sáng tính chân lý mà thôi!
Ba là, thực tiễn ở Việt Nam
đã minh chứng, từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, Nhà nước
ta luôn tôn trọng các quyền tự do cơ bản của công dân và coi đó là một trong những
nguyên tắc xây dựng luật pháp, được hiến định trong Hiến pháp và được bảo đảm
trên thực tế. Công dân được quyền tự mình lựa chọn và thực hiện các quyền tự do
cơ bản của mình trong khuôn khổ của pháp luật mà không có sự ngăn cản, hạn chế
nào, như: mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, tự do cư trú, tự
do kinh doanh, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận và báo chí, tự
do nghiên cứu, sáng tác, tự do lựa chọn nghề nghiệp mưu sinh, tự do hôn nhân,
v.v. Không chỉ có thế, bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, nhằm đảm bảo
quyền con người, Việt Nam đã sớm gia nhập, ký kết và cho đến nay đã tham gia hầu
hết công ước quốc tế về quyền con người. Đồng thời, nội luật hóa các công ước
này vào hệ thống pháp luật quốc gia. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận
và đánh giá cao.
Những xác thực từ các nhân chứng
lịch sử và thực tiễn của nền tự do ở Việt Nam một lần nữa khẳng định, Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã đem lại nền tự do có thật và thật sự tự do cho nhân dân.
Nền dân chủ, tự do đó gắn liền với nền độc lập dân tộc và là kết quả tất yếu của
độc lập dân tộc. Đó quyết không phải là một nền tự do giả hiệu. Ngày nay, những
giá trị đó tiếp tục tỏa sáng trong dòng chảy lịch sử của dân tộc và thời đại.
Không một mưu đồ đen tối nào, không một thế lực nào có thể phủ nhận giá trị nền
độc lập, nền dân chủ và tự do mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đem lại cho dân tộc
và nhân dân Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét