Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự ổn định chính trị và gia tăng nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, có nhiều dân tộc.
Trong 54 dân tộc anh em, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, còn lại là dân tộc thiểu
số. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo,
đây là những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh ế, an ninh quốc
phòng, môi trường sinh thái và sự thông thương với nước ngoài. Do ý thức được tầm
quan trọng của vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giải quyết vấn
đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã sớm hoạch định
và thực hiện nhất quán chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển, cùng đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết thành công vấn đề dân tộc không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Đây chính là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toán dân, liên quan đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và
toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị trong cả nước.
Tình hình thế giới hiện nay đang có nhiều diễn biến phức tạp,
đặc biệt là vấn đề xung đột dân tộc và sắc tộc. Các thế lực thù địch trong và
ngoài nước đang triển khai chiến lược diễn biến hòa bình, lợi dụng vấn đề dân tộc
để chống phá nước ta, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, việc nhận thức
đúng đắn, sâu sắc vị trí vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là nhiệm vụ mang
tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó
thì việc tìm hiểu và bám sát quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về giải quyết vấn
đề dân tộc là đòi hỏi về mặt lý luận và thực tiễn.
Đặc điểm của thế giới toàn cầu hóa hiện nay và những khuynh hướng
phổ biến đối với vấn đề dân tộc
Đặc điểm của thế giới toàn cầu hóa hiện nay
Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay, chưa bao giờ thế giới đương đại có những biến chuyển, dịch chuyển to lớn
trên nhiều mặt như hiện nay, đặc biệt dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa
học - kỹ thuật, nhất là công nghệ số, thông tin và công nghệ sinh học. Toàn cầu
hóa đã trở thành khái niệm mang tính phổ biến, thường trực trên mọi lĩnh vực,
khía cạnh của đời sống, nó không chỉ là thuật ngữ chuyên dùng của các chính trị
gia, các nhà phát triển mà trở thành ý niệm thường nhật, mỗi người đều cảm nhận
được.
Thế giới toàn cầu hóa là một không gian kinh tế, xã hội, văn hóa
và chính trị dưới sự tác động của quá trình
hội nhập quốc tế do đông đảo các quốc gia dân tộc và các chủ thể quan hệ quốc
tế khác triển khai. Chiều sâu của quá trình hội nhập quốc tế được thể hiện ở số
lượng, sự đa dạng, quy mô và mục tiêu hoạt động của các thể chế liên kết. Các
quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên gắn kết với nhau chặt chẽ hơn, trở thành bộ
phận cấu thành của hệ thống, ràng buộc và phụ thuộc nhau bởi các quy định hay
các nguyên tắc chung. Đây là xu thế phát triển tất yếu của thế giới dưới tác
động và thúc đẩy mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật, khoa học quản lý đã
tạo ra lực lượng sản xuất và quá trình phân công lao động mới. Thế giới toàn cầu
hóa cũng thúc đẩy môi trường hợp tác, đồng thời là mặt trận đấu tranh giữa các
quốc gia độc lập có chủ quyền và các lực lượng tiến bộ khác vì các mục tiêu hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. Quá trình toàn cầu hóa thực chất
cũng là quá trình thay đổi, dịch chuyển các giá trị, đan xen giữa tính quốc
gia với quốc tế, giữa quốc gia với các khối nước khu vực, quá trình đối
thoại, hợp tác.
Những khuynh hướng phổ biến đối với vấn đề dân tộc
Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của
thế giới. Mỗi quốc gia dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều cố gắng khẳng định giá trị
dân tộc, như quyền tự quyết định chế độ xã hội, kinh tế, đường lối phát triển
đất nước, khẳng định sự bình đẳng giữa các quốc gia trong sinh hoạt quốc tế.
Lợi ích quốc gia được các nước đặt lên hàng đầu trong các hoạt động đối nội và
đối ngoại. Chính phủ các nước đều coi trọng việc xác lập, bảo vệ và củng cố
các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc, thực thi nhiều chính sách phát
triển kinh tế - xã hội tích cực, cố gắng tạo lập sự hài hòa lãnh thổ, vùng
miền, sắc tộc nhằm hướng tới sự đồng thuận, gắn kết quốc gia.
Về mặt đối ngoại, ranh giới ý thức hệ, tôn giáo, lý tưởng cùng
chung chế độ xã hội không còn nhiều ý nghĩa mà thay vào đó là các điểm tương
đồng về lợi ích quốc gia dân tộc và được xem là cơ sở để lựa chọn và xây dựng
các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Lợi ích quốc gia dân tộc đôi
khi được đánh đổi bằng các cuộc chiến tranh xâm lược hay các cuộc đàn áp đối
phương.
Các thế lực cường quyền toàn cầu triển khai nhiều học thuyết và
hành động bất chấp chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của các nước trên thế
giới. Đây vừa là quá trình mở rộng thị trường cho các tập đoàn tư bản độc
quyền, vừa là thủ đoạn áp đặt các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm
vi toàn thế giới trên cơ sở thủ tiêu chủ quyền, độc lập của các quốc gia dân
tộc đang phát triển. Các cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Li-bi, Xy-ri... là
những minh chứng rõ nét cho những đường lối can thiệp thô bạo đó.
Xuất hiện chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi trong đời sống quốc
tế. Xu thế phát triển đa cực của thế giới cùng những mâu thuẫn của quá trình
toàn cầu hóa kết hợp sự cuồng tín tôn giáo đã nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Hơn nữa, chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, bành trướng, bá quyền cũng thừa cơ
trỗi dậy đe dọa sự ổn định của quốc tế và khu vực.
Những tác động của toàn cầu hóa đến các quốc gia dân tộc
Hội nhập, toàn cầu hóa - tính tất yếu của quá trình vận động của
dân tộc và vấn đề dân tộc
Dân tộc và vấn đề dân tộc là sự đối thoại, xâm nhập, đan xen, trao
đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và ngoại
sinh. Không có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần khiết
và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Không hội nhập với thế
giới bên ngoài thì sớm hay muộn cũng sẽ suy thoái. Nhưng vấn đề là ở chỗ cách
thức hội nhập với thế giới như thế nào thì mới đem lại hiệu quả.
Cơ hội của vấn đề dân tộc trong hội nhập và toàn cầu hóa
Các quốc gia dân tộc có điều kiện “đối sánh”, để nhìn nhận và làm
rõ vấn đề dân tộc trong bối cảnh tình hình mới, có điều kiện để học hỏi cái
hay, cái tinh hoa từ bên ngoài (quốc gia, khu vực, toàn cầu) và tránh được
những “xung đột” do vấn đề dân tộc gây ra; có điều kiện quảng bá và giới thiệu
quan điểm của nhà nước về vấn đề dân tộc và trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Hội nhập và toàn cầu hóa là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, con người
ngang tầm thời đại và điều kiện để làm giàu và phát triển các dân tộc theo
hướng hiện đại, khắc phục những hủ tục để cải tạo phong tục, tập quán...
Thách thức đối với vấn đề dân tộc trong hội nhập và toàn cầu hóa
Nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của người dân, thậm chí của cả cán
bộ chịu tác động xấu từ bên ngoài bằng rất nhiều hình thức khác nhau, vật chất,
tinh thần, tâm linh, trực tiếp và gián tiếp..., đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt
được những diễn biến tâm tư, tình cảm của họ. Từ những tác động đó, dần dần
hình thành tâm lý, nguy cơ phân hóa, cực đoan, chủ nghĩa dân tộc là những mầm
mống nảy sinh gây mất đoàn kết dân tộc. Thực tế đã có những sự việc nhỏ trong
đời sống kinh tế - xã hội bị vướng mắc trong quan hệ giữa các cá nhân, cộng
đồng nhỏ đã bị đẩy lên thành vấn đề quan hệ dân tộc, chính trị hóa từ sự việc
quan hệ kinh tế - dân sự.
Đây là những ảnh hưởng, hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế tác động tiêu cực đến sự phát triển của các dân tộc trên nhiều
phương diện: kinh tế - văn hóa - xã hội và nhất là quan hệ chính trị. Một mắt
xích bị bất ổn sẽ kéo theo chuỗi bất ổn của quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng trực
tiếp đến an ninh toàn cầu. Vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập đang đặt ra cho các
quốc gia dân tộc phải nắm bắt và xử lý được những vấn đề cơ bản, bao gồm:
- Quan hệ đa chiều bao gồm cả những tương tác tích cực và hạn chế
giữa tộc người với tộc người trong phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm cả
những tiến bộ và hạn chế của tộc người với tộc người trên phạm vi quốc tế. Từ
những so sánh quan hệ này hình thành tâm lý so sánh về trình độ phát triển và
mức hưởng thụ kinh tế, văn hóa xã hội giữa các tộc người trong phạm vi quốc gia
và quốc tế, các thế lực bên ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền
gây mất ổn định chính trị.
- Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở
thành vấn đề lớn mà các quốc gia dân tộc phải đối mặt và bắt buộc phải giải
quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn hóa và cũng là cơ sở gắn kết
tính cộng đồng trở nên mạnh mẽ hơn, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẻ
lợi ích có được. Tâm lý quốc gia, dân tộc cũng hình thành từ những giá trị
truyền thống và yêu nước. Trong khi yếu tố hiện đại phần lớn là những yếu tố
ngoại lai, các giá trị văn minh và lối sống công nghiệp. Điểm mấu chốt là giải
quyết mối quan hệ đó như thế nào, giữ lại cái gì, tiếp nhận cái gì, hòa trộn thế
nào là những câu hỏi khó.
- Sự đối diện giữa đời sống vật
chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh ngày càng trở nên phức tạp, đan xen và
xuất hiện ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội. Toàn cầu hóa dẫn đến sự xâm
nhập, du nhập các dòng tư tưởng tôn giáo, tâm linh trên toàn thế giới dù rằng
mức độ có khác nhau, nhưng rõ ràng yếu tố này đang chi phối đời sống các cá
nhân và cộng đồng mạnh mẽ dễ dẫn đến sự chệch dòng nếu không có sự định
hướng, kiểm soát phù hợp.
- Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn
đề lớn đặt ra. Bản sắc khẳng định giá trị và sự tồn tại của một quốc gia dân
tộc nhưng cũng không thể giữ bản sắc theo nghĩa tuyệt đối, khép kín mà phải có
yếu tố hòa nhập. Nhưng nếu không có sự độc lập, tự chủ thì sẽ dẫn đến sự đồng
hóa, cả theo nghĩa nhân chủng học, cả về văn hóa, theo con đường thôn tính tự
nhiên hoặc đôi khi cả sự tự nguyện.
- Vấn đề phát triển và phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi
quốc gia dân tộc phải lựa chọn con đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải quyết
hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Rõ ràng, trong một tương
lai xa phải bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây giờ nhưng với nhiều
quốc gia, điều đó là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại.
- Vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xã
hội. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển hiện đại gắn với quá trình
toàn cầu hóa, phân công lại lao động, phân chia lại các giá trị. Toàn cầu hóa
đã di chuyển chủ nghĩa tư bản ra toàn thế giới với sự bóc lột tinh vi đối với
các quốc gia dân tộc khác. Dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh
mẽ ở các nước đang phát triển, giữa khối một số nước giàu nhất với khối phần
lớn các nước nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy quá trình này đi nhanh hơn so
với tiến trình lịch sử.
Những tác động tiêu cực và âm mưu của các thế lực thù địch đối với
vấn đề dân tộc ở nước ta
Vấn đề dân tộc và tôn giáo từ rất sớm bị các
thế lực xâm lược từ bên ngoài, các thế lực thực dân, đế quốc xem như một “công
cụ”, “phương tiện” tất yếu vừa có tính “mở đường”, vừa là “thường xuyên” trong
quá trình thực hiện các ý đồ xâm lược, chống phá cách mạng. Dân tộc và tôn giáo
là hai vấn đề vừa có tính lịch sử, vừa có tính thời sự hiện nay, đó cũng là các
vấn đề nhạy cảm và phức tạp trong mọi thời kỳ phát triển. Vấn đề dân tộc ở nước
ta lại bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, bởi mấy lý do
sau:
Một là, các dân tộc thiểu số là một bộ phận của
quốc gia có đời sống còn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung. Nguyên nhân kinh
tế là yếu tố dễ đem ra để so sánh, kích động, dễ nhận biết để lồng vào đó cách
giải thích khác nhau nhằm tạo ra sự nghi kỵ, từ đó phá hoại khối đoàn kết giữa
các dân tộc, đa số với thiểu số; thiểu số với thiểu số.
Hai là, mặt bằng học vấn của đồng bào các dân
tộc thiểu số không đồng đều, nhận thức còn những hạn chế nên dễ bị các thế lực
thù địch lợi dụng để xuyên tạc sự thật về các vấn đề phát triển và quan hệ dân
tộc.
Ba là, trình độ quản lý nhà nước về công tác dân tộc
của hệ thống chính trị bên cạnh thành tựu vẫn còn hạn chế, chưa sâu sát,
chưa bền vững, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như nhận thức, cán bộ, cơ chế
quản lý, chính sách, xuất phát điểm của các dân tộc trong phát triển...
Bốn là, xuất phát từ quan điểm chiến lược (thuộc
bản chất) của các thế lực thù địch khi đi xâm lược một thuộc địa hay chiếm đoạt
quốc gia khác trước khi chiếm tài nguyên là chinh phục “người dân bản địa, bản
xứ” thông qua con đường có tính mũi nhọn là “tôn giáo” và “dân tộc”. Lợi dụng
đặc điểm quan hệ tộc người trong điều kiện các quốc gia đa tộc người; áp
dụng chính sách “chia để trị” để kích động phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Quan hệ dân tộc ở Việt Nam
hiện nay
Mối quan hệ giữa tộc người đa số với tộc người thiểu
số
Mối quan hệ này mang tính phổ biến và ngày
càng phát triển sâu rộng trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa. Tộc người Việt
Nam đóng vai trò to lớn, là nòng cốt đoàn kết các tộc người ở nước ta. Có đoàn
kết được tộc người đa số với tộc người thiểu số thì sự nghiệp đại đoàn kết dân
tộc mới trở thành hiện thực. Với tầm quan trọng, tính phổ biến và xu thế ngày
càng phát triển sâu rộng nên mối quan hệ này là mối quan hệ cơ bản trong các
quan hệ tộc người ở nước ta.
Để đoàn kết tộc
người đa số với tộc người thiểu số cần phát triển sự bình đẳng, tinh thần đoàn
kết, cố kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục tư tưởng dân tộc lớn, hẹp
hòi, địa phương bản vị và đẩy mạnh phát triển bền vững trªn c¸c mÆt,
®Æc biÖt lµ c¸c lÜnh vùc vÒ kinh tế - xã hội - văn hóa - môi trường
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Mối quan hệ giữa các tộc người thiểu số với nhau
Quan hệ này mang
tính chất láng giềng, cụ thể thông qua quan hệ giữa bản làng tộc người này với
bản làng tộc người khác. Các tộc người vẫn giữ được tính độc lập riêng, tôn trọng,
hiểu biết và hòa hợp lẫn nhau. Những va chạm, bất đồng xảy ra chủ yếu trong
quan hệ đất đai do phương thức sản xuất truyền thống để lại và những tác dộng mới
do chính sách đổi mới như: luật đất đai, luật bảo vệ rừng, phân chia lại địa giới
hành chính. Để phát triển mối quan hệ giữa các tộc người cần phát triển quan điểm
tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết truyền thống tập quán của các tộc người láng giềng,
không ngừng nâng cao trình độ dân trí và đời sống kinh tế để tạo điều kiện hòa
hợp, xích lại gần nhau nhưng vẫn giữ được bản sắc tộc người.
Quan hệ nội tộc trong c¸c téc ngêi
Quan hệ tộc người
trong nước thông qua các mối quan hệ gia đình, dòng họ, làng bản, trong đó, các
yếu tố ngôn ngữ,văn hóa, tập quán, tín ngưỡng, lịch sử, quan hệ họ tộc, kinh tế
vừa là những thành tố văn hóa tộc người vừa là những nhân tố cố kết các thành
viên tộc người vừa để phân biệt với các tộc người khác. Mỗi tộc người đều có
nét văn hóa riêng tạo nên tính đa dạng trong quốc gia thống nhất. Do vậy, để
nâng cao tính quốc gia trong mỗi tộc người cần phát triển ý thức quốc gia, ý thức
công dân Việt Nam và quan hệ xã hội ở các tộc người.
Quan hệ với đồng
tộc ở nước ngoài thực chất là quan hệ nội tộc người trong điều kiện đặc biệt
mang tính xuyên quốc gia trong cư trú của một tộc người. Đặc điểm này do lịch sử
tộc người để lại và hiện nay mối quan hệ này ngày càng gia tăng. Những hoạt động
trong quan hệ đồng tộc xuyên quốc gia có những mặt tích cực song cũng ẩn chứa
nhiều yếu tố nhạy cảm, dễ bị kẻ xấu lợi dụng đánh tráo khái niệm lãnh thổ tộc
người – biên giới quốc gia; các thành viên chỉ đề cao tộc người mà không nhận
ra vấn đề lãnh thổ quốc gia. Để khắc phục, cần nâng cao nhận thức về quốc gia,
phát triển những nhân tố gắn bó tộc người với Tổ quốc, đất nước; nâng cao tự
hào quê hương đất nước; cảnh giác với những âm mưu thâm độc của các thế lực thù
địch, quản lý tốt mối quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên biên giới, giữ vững an
ninh và chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Những mối quan hệ
tộc người trên tuy có vai trò, vị trí và tầm quan trọng khác nhau nhưng liên
thông và tác động thúc đẩy lẫn nhau, do vậy, các mối quan hệ này cần được coi
trọng và đòi hỏi phải xử lý đúng đắn. Các thế lực phản động luôn tìm mọi thủ đoạn
lợi dụng kích động những bất đồng, những mâu thuẫn trong các quan hệ tộc người
với mục đích phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân ta. Do vậy, cần đề cao cảnh giác, đấu tranh hiệu quả
với các âm mưu của các thế lực thù địch.
Thực trạng quan hệ tộc người ở nước ta
Bình đẳng, đoàn kết,
hợp tác và hòa hợp, tương trợ giúp lẫn nhau các tộc người không phân biệt ở miền
núi hay miền xuôi, đa số hay tiểu số đã gắn bó lâu năm, lao động sản xuất đồng
cam cộng khổ góp phần bồi đắp lên truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh hùng bất
khuất, cần cù sáng tạo, giàu lòng nhân ái... Đặc biệt, từ khi có Đảng, có chế độ
XHCN, truyền thống và sức mạnh của dân tộc ta được phát huy cao độ, làm cho dân
tộc ta giành được những thắng lợi diệu kỳ. Tuy nhiên, trong mối quan hệ tộc người
ở nước ta đã xuất hiện những vấn đề phức tạp mà kẻ thù có thể lợi dụng khoét
sâu, chia rẽ, trục lợi phá hoại. Đó là những vấn đề do lịch sử để lại trong
quan hệ tộc người giữa người kinh và người dân tộc thiểu số khác. Sự chênh lệch
trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữa miền núi và
miền xuôi, tộc người thiểu số với đa số, vấn đề di cư tự do, tranh chấp về quyền
lợi giữa đồng bào đi xây dựng kinh tế mới với đồng bào địa phương
Tình trạng quan
liêu, tham nhũng, yếu kém về năng lực quản lý xã hội của bộ máy chính quyền yếu
kém, thiếu hiểu biết và hiện tượng vi phạm quyền lợi và bản sắc văn hóa, phong
tục tập quán... của một bộ phận cán bộ nhân viên nhà nước trong quá trình thực
hiện chính sách kinh tế xã hội và chính sách dân tộc có thể dẫn đến mâu thuẫn,
xung đột.
Đặc biệt hiện nay
các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “ DBHB” trong đó lợi dụng
quan hệ dân tộc, vấn đề dân tộc để chống phá ta và thực tế đã gây ra mâu thuẫn
xung đột cục bộ và tư tưởng ly khai ở một số nơi như ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
Tây Bắc, Tây Nghệ An... ở một số tộc người có những vấn đề lịch sử nhạy cảm và
một số tộc người có quan hệ đồng tộc xuyên biên giới. Các thế thế lực thù địch
tăng cường phá hoại các mưu đồ nham hiểm triệt để, lợi dụng những kẽ hở của
chính sách, những bất đồng trong quan hệ tộc người để khoét sâu bất đồng, mâu
thuẫn. “Điểm nóng” Tây Nguyên, Tây
Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề
dân tộc
Quan điểm, đường lối trong việc giải quyết vấn đề dân tộc quốc gia
Thứ nhất, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia - độc
lập dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Xây
dựng kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế. Nghị quyết số
07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị khóa IX xác định nguyên tắc hội
nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh
thủ hòa bình, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, đổi mới và thống nhất nhận thức kịp thời
xây dựng độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Giải quyết
tốt 8 mối quan hệ đặt ra và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Độc lập và tự
chủ có liên quan mật thiết nhưng không đồng nhất nhau và đều có những nội hàm
riêng trên thực tế. Độc lập là quyền và sự công nhận chủ quyền, là sự khẳng
định tính đơn nhất nhưng vẫn nằm trong thế đan xen, hợp tác trong các khối kinh
tế, chính trị. Tự chủ là sự chủ động, tự quyết và tự giải quyết các vấn đề
thuộc về quốc gia độc lập, trên nguyên tắc không can thiệp. Vấn đề quan trọng
nhất là nâng cao tự chủ quốc gia.
Độc lập chính trị là vô cùng quan trọng và được coi là nguyên tắc
bất di bất dịch trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị ở đây là
vấn đề nhà nước và chính quyền. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quản trị toàn cầu
đang trở thành một xu hướng đan xen và tồn tại bên cạnh quản trị quốc gia,
trong quản lý quốc gia như một phương thức quản trị hữu hiệu.
Thứ ba, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời
giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, quân
sự của quốc gia. Sức mạnh đó bao gồm các cấu thành: Tiềm lực kinh tế, khoa học
kỹ thuật, quốc phòng và an ninh; các giá trị truyền thống và đương đại Việt
Nam, bao gồm cả các hệ giá trị mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước;
củng cố vị thế quốc gia trên trường quốc tế và khu vực, củng cố chủ quyền quốc
gia trên cả vùng biển và đất liền, củng cố và bảo vệ độc lập, dân tộc.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này
cần được nhận thức đầy đủ trong bối cảnh mới khi mà bảo vệ Tổ quốc không chỉ
trên mặt trận sức mạnh vũ khí trực tiếp mà cả trong phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội và bảo vệ môi trường. Và nó cần phải được chú trọng xử lý ngay
trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các đề án, quy hoạch,
kế hoạch.
Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc trong nước
Vấn đề dân tộc luôn được Đảng quan tâm và thể hiện trong từng văn
kiện của Đảng. Có thể thấy, đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc
được khái quát trên những điểm cơ bản là:
- Trong nội bộ quốc gia và với các quốc gia
khác, đó là việc giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc trên cơ sở kiên
trì phát huy truyền thống “độc lập dân tộc” gắn với “chủ nghĩa xã hội”, và
“không có gì quý hơn độc lập tự do”.
- Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là giải phóng con người
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc; phát huy truyền
thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
- Việc giải quyết vấn đề dân tộc không chỉ là vấn đề mang tính
chính trị -xã hội sâu sắc mà còn mang tính liên ngành, tính toàn diện, tác động
đến nhiều cấp, nhiều ngành trong hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị
xã hội các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Tiếp tục kiên trì giải quyết một số vấn đề cơ bản liên quan đến
dân tộc, đó là:
- Sự phát triển không đồng đều của các vùng, nhóm dân tộc: Có thể nhận thấy, sự
phát triển không đồng đều làm cho đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân tộc
chênh lệch nhau, gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố động lực phát triển
ở các dân tộc. Điều này gây bất lợi trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, nhất là khi mối quan hệ dân tộc trở nên phức tạp và dễ vượt ra khỏi phạm
vi dân tộc trở thành quan hệ quốc gia và quốc tế khi bị các thế lực thù địch lợi
dụng. Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao
mọi mặt đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng,
các dân tộc là một mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân tộc nói riêng và công
tác quản lý quốc gia nói chung.
- Quan hệ giữa yếu tố truyền thống (đoàn kết, yêu nước) và hiện
đại: Xử lý hài hòa các nhu cầu và lợi ích, giữa yếu tố truyền
thống và hiện đại, giữa kinh tế và văn hóa trong sự biến đổi kinh tế - văn hóa,
quan hệ dân tộc đang là nhu cầu bức thiết, đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu
rộng, khả năng giải quyết tình hình thực tiễn nhạy bén, linh hoạt. Đây là thách
thức đối với các cấp, các ngành, địa phương vùng dân tộc thiểu số ở nước ta
hiện nay.
- Quan hệ về vấn đề dân tộc liên quan đến các nước trong khu vực
và trên thế giới. Nhiều dân tộc ở nước ta hiện có mối liên hệ
truyền thống với các cư dân vùng biên giới các quốc gia láng giềng cũng như các
quốc gia trong khu vực và cả một số quốc gia trên thế giới. Giải quyết và xử lý
đúng đắn quan hệ về vấn đề dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa liên quan đến
các nước trong khu vực và thế giới là một yêu cầu quan trọng. Phải kiên trì
thực hiện đường lối chính trị rộng mở, đa phương hóa, đoàn kết thống nhất dân
tộc. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch hòng chống phá lợi ích dân tộc. Tùy từng sự
việc, điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà có những phân tích, xử lý đúng đắn, và đòi
hỏi công tác dân tộc phải nắm chắc tình hình, nhạy bén, làm tham mưu tốt cho
Đảng, Nhà nước trong công tác đối ngoại chính trị, đối ngoại nhân dân và xử lý
tình huống khi cần thiết.
Chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay và những nhiệm vụ chủ yếu cấp
bách trong gi¶i quyÕt vÊn ®Ò d©n téc
Chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước là hệ thống các chủ trương, kế hoạch, giải pháp của
Đảng và Nhà nước tác động vào tất cả các lĩnh vực đời sống của các dân tộc, các
vùng dân tộc và có thể đối với từng dân tộc riêng biệt, nhằm thực hiện quyền
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng phát
triển.
Như vậy, chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam. Đây là một
bộ phận của chính sách quốc gia nhằm phát triển, khai thác tiềm năng, thế mạnh,
truyền thống của các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc trong quan hệ hữu cơ với
các vùng khác, hướng tới phát triển đất nước trong tổng thể. Quan điểm chính
sách dân tộc có nội dung toàn diện, kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an
ninh, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, truyền thống của mỗi địa phương, mỗi
dân tộc nhằm hướng vào giải quyết vấn đề dân tộc.
Cơ sở để
Đảng và Nhà nước ta xây dựng chính sách dân tộc hiện nay là trung thành với
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc; từ tình hình đặc điểm dân tộc Việt Nam; yêu cầu chung của cách mạng Việt
Nam và nhiệm vụ chủ yếu của công cuộc đổi mới hiện nay.
Những nội
dung cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
Những nội dung cơ bản của chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay thể hiện tập trung ở các
nghị quyết của c¸c kú ®¹i héi, nghị quyết
của Ban Chấp hành Trung ương c¸c khãa IX, X, XI và ®Æc biÖt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) chØ râ: Thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát
triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội
phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các dân tộc thiểu
số.
Tõ
quan ®iÓm trªn cña §¶ng ta thÊy nổi lên các nội dung cơ bản sau:
- Vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm
mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn
diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn
vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn
nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy
những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao
thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát
huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời
tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước.
- Công tác dân tộc
và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị.
Những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách của công tác dân tộc trong giai đoạn
hiện nay
- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng
bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc
như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ
tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực
biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng
thiếu đất sản xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơ Me Nam Bộ.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới.
Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới; công
tác quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo đảm an ninh, quốc
phòng.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn
hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất
lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số;
làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền
thống tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc. Thực hiện chương trình phổ cập
giáo dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc
nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ chức các trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc
dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng,
dạy nghề ở vùng dân tộc; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội
trú; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các
dân tộc vào học tại các trường đại học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị đại học
dân tộc ở khu vực miền trung, Tây Nguyên. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường
chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số. Tăng cường
cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản, thôn, ấp; nâng cao hơn nữa
chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến
khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số. Kiện toàn, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở; kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số
cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ,
luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc, khắc
phục tình trạng cơ sở không có tổ chức đảng và đảng viên.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng vô
hiệu hóa mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; tăng cường công
tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, kiên quyết không để xảy
ra những "điểm nóng" về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số. Tiếp tục xây dựng, phát triển các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở vùng dân
tộc thiểu số, vùng biên giới.
- Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng,
tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng tôn giáo,
tín ngưỡng để chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự
nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nước ta.
- Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,
tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và
giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Thông qua các chính sách, biện
pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự
cường để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống
ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Quân đội nhân dân Việt Nam với
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước
Thực trạng tình hình dân tộc của nước ta hiện nay là tốt
đẹp hơn bao giờ hết, các dân tộc đang cùng đồng bào cả nước phát triển tiến bộ
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đồng thời nhà nước
ta đang huy động mọi nguồn lực làm cho miền núi và vùng dân tộc phát triển
nhanh hơn, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa vùng đồng bào dân tộc
với các vùng khác. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng: dân tộc là vấn đề chiến
lược lớn, là vấn đề rất dễ nhạy cảm. Hơn nữa, tính chất quan trọng của nó không
phải chỉ là nhất thời mà còn là vấn đề chiến lược lâu dài.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn
kết, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
là sức mạnh và điều kiện đảm bảo an ninh và phát triển bền vững của một nước có
nhiều dân tộc như nước ta.
- Thực hiện tốt chính sách dân tộc là một trong những điều kiện cơ bản để xây
dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; củng cố thế
trận quốc phòng toàn dân; góp phần xây dựng biên cơng vững mạnh về mọi mặt. Bởi Quân đội ta là quân đội của dân do dân
và vì dân, từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu, thực chất nội dung này
nhằm giải quyết nguồn vào của quân đội. Quân đội ta vốn có mặt khắp mọi miền Tổ
Quốc, gắn bó sâu nặng với đồng bào các dân tộc
- Quân đội
có vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc
ta: Bởi quân đội là công
cụ bạo lực bảo vệ độc lập dân tộc, quyền bình đẳng tộc người, chống sự chia rẽ
của kẻ thù. Là lực lượng có lợi thế, khả năng, điều kiện để thực hiện tốt
chính sách dân tộc (xuÊt ph¸t tõ
®Æc ®iÓm vÒ tæ chøc, biªn chÕ cña qu©n ®éi lµ tÝnh kỉ
luật cao, tổ chøc chÆt chÏ,
lực lượng tập trung, giác ngộ...), Quân đội có trọng trách lớn trong thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Đây vừa là trách nhiệm vừa là vinh dự thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của
quân đội ta.
Quân đội ta hiện
nay cần tập trung làm tốt những nội dung sau đây:
- Giáo dục cán bộ,
chiến sỹ nắm vững quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, nâng
cao trách nhiệm trong thực hiện chính sách.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, nhất là vùng núi: tuyên
truyền vận động nhân dân nắm và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; xây dựng khối đoàn kết dân tộc, động viên đồng bào thực hiện tốt các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
- Tích cực tham gia xây dựng vùng dân tộc miền núi, biên giới vững mạnh bao
gåm: xây dựng hệ thống chính trị; bồi dưỡng đội ngũ cốt
cán, tạo nguồn cán bộ; giữ vững ổn định chính trị an ninh biên giới; giúp địa
phương xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, định canh, định cư, trồng, bảo
vệ rừng, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Cùng đồng bào
xây dựng thế trận quốc phòng an ninh ở miền núi, biên giới vững chắc: Giáo dục quốc phòng an ninh địa phương;
cùng địa phương xây dựng phương án kết hợp quốc phòng an ninh với kinh tế; phối
hợp và xây dựng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ vững mạnh.
- Tôn trọng phong
tục tập quán, truyền thống văn hoá của các dân tộc, luôn xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”,
cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ xấu và các thế lực thù định./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét