TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI CÁC
QUAN ĐIỂM SAI TRÁI NHẰM PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÀ CON ĐƯỜNG ĐI
LÊN XÂY DỰNG CNXH Ở NƯỚC TA
Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát huy và nâng lên một tầm cao mới. Tư tưởng của Người về đại đoàn kết
dân tộc xây dựng hệ thống Chính trị trong sạch vững mạnh là cơ để Đảng ta đề ra
đường lối chiến lược và sách lược tập hợp lực lượng đúng đắn, tạo nên sức mạnh
vô địch mang đến những thắng lợi to lớn
của cách mạng Việt Nam, cả cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược “Diễn biến
hòa bình” để chống phá cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có chống
phá khối đại đoàn kết dân tộc và hệ thống chính trị là một trọng điểm.
Chính
vì vậy, việc nghiên cứu học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn, góp phần
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của cách mạng giai đoạn cách mạng mới.
Tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đại đoàn kết dân tộc
- Đại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công của cách mạng
Việt Nam
+ Đây là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải là vấn đề mang tính nhất thời, hay
một giải pháp tình thế mà đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, mang tính nhất
quán, xuyên suốt, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo thống
kê của các nhà nghiên cứu trong tổng số 1056
bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh thì có tới 406 bài Người trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Trong Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb
CTQG, H.2011 (15 tập) có tới 40% các bài viết, bài nói, Hồ Chí Minh đề cập đến
vấn đề đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc...16 lần trong tác phẩm sửa đổi lối làm
việc, 19 lần trong diễn văn kỷ niệm Quốc khánh nước Việt Nam năm 1957, 8 lẩn
trong di chúc...
Có thể nói, từ
trong quá trình tìm đường cứu nước, hay trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng, và cả trước khi nhắm mắt xuôi tay, lúc nào HCM cũng luôn trăn trở và quan
tâm đến vấn đề đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc và coi đây là vấn đề sống còn
của CMVN.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là
nhân tố bảo đảm thắng lợi cách mạng Việt Nam.
Tháng 7/1920, Hồ
Chí Minh đã tiếp cận với bản sơ thảo lần thứ nhất của Lênin về vấn đề dân tộc
thuộc địa đăng trên báo nhân đạo. Người đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân
tộc Việt Nam “theo con đường cách mạng vô sản”.
Nội dung của con
đường cách mạng vô sản mà Người chỉ ra bao gồm: phải có Đảng lãnh đạo; có
phương pháp cách mạng phù hợp; có lực lượng cách mạng đủ mạnh; có sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế. Trong đó, muốn có sức lực lượng đủ mạnh thì phải trên cơ sơ
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Người nhận thấy: “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”, khi “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống
lại”.
- Lực lượng và
hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc
+ Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả
mọi người dân Việt Nam yêu nước không phân chia đảng phái, dân tộc, giai cấp,
già trẻ, gái trai… kể cả những người đã lầm đường, lạc lối nhưng biết ăn năn, hối
cải trở về với nhân dân. Trong đó, nòng cốt khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
+ Hình thức tổ chức lực lượng đại đoàn
kết toàn dân tộc là xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được tập hợp trong mặt
trận dân tộc thống nhất. Để phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của cách mạng, Mặt
trận dân tộc thống nhất được thành lập với những tên gọi khác nhau qua các thời
kỳ: Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương (1936); Mặt trận dân chủ Đông Dương (1938); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt
trận Liên Việt (1946); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955); Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977 đến nay).
-
Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc
Thứ nhất, tin vào dân, dựa vào dân, vì lợi
ích của dân để đoàn kết toàn dân. Theo Hồ Chí Minh: “ Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Cho nên “phải biết đem tài dân, sức dân để
làm lợi cho dân”.
Thứ hai, đoàn kết rộng rãi, lâu dài.
+
Đoàn kết rộng rãi: Theo HCM là không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc,
giai cấp, già trẻ, gái, trai, cả người Việt nam ở trong nước và ở nước ngoài...
Ngay cả những người
không may bị lầm đường lạc lối, nhưng đã ăn năn, hối cải thì cũng tạo chỗ đứng
cho họ ở trong khối đại đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh “ Năm ngón tay cũng
có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của
tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại lộ.”
Riêng với giai cấp địa chủ, người đã
chia ra làm hai loại: trung, tiểu địa chủ và đại địa chủ. Với trung, tiểu địa
chủ mà chưa ra mặt phản cách mạng, thì phải lối kéo họ về phía vô sản giai cấp,
chí ít cũng phải để họ đứng ở vị trí trung lập. Còn với lực lượng đại địa chủ
ôm chân đế quốc đã ra mặt phản cách mạng thì phải kiên quyết đánh đổ.
Bằng sự sáng tạo
và thể hiện tính nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh đã đoàn kết cho cách mạng một
lực lượng vô cùng to lớn, trong đó có cả những người thuộc chế độ Nam triều cũ
như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, kể cả Hoàng Đế Bảo Đại, người
đã từng ký án tử hình vắng mặt Hồ Chí Minh theo lệnh của quan thầy thực dân,
nhưng khi Bảo Đại thoái vị vẫn được Hồ Chí Minh viết thư mời tham gia chính
phủ.
Nói tóm lại, theo HCM “Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
+ Đoàn kết lâu
dài: Với tư duy, đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn
chính trị, nên HCM yêu cầu, phải đoàn kết lâu dài trong suốt quá trình cách
mạng, cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
Trong cách mạng
giải phóng dân tộc: đoàn kết để đánh đuổi kẻ thù, giành độc lập dân tộc, mang
lại tự do cho nhân dân. Trong cách mạng XHCN: đoàn kết để xây dựng thành công
CNXH, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Vì theo Hồ Chí
Minh nếu “Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập ấy
cũng chẳng có nghĩa lý gì”
Thứ ba,
đoàn kết trên cơ sở hiệp thương dân chủ, đoàn kết thực sự chân thành.
Hiệp thương dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Theo nguyên tắc này, mọi việc của đất nước đều được các thành viên của mặt trận
bàn bạc thống nhất, quyết định một cách dân chủ.
Đoàn kết thực sự chân thành “nghĩa là mục đích phải nhất trí
và lập trường cũng phải nhất trí; vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt
của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân”.
Thứ tư,
đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa của dân tộc.
Yêu nước
là truyền thống quý báu của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc. Tại Đại hội Đảng lầ II (1951) Hồ Chí Minh đã khẳng định “ Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Truyền
thống nhân nghĩa thể hiện ở lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng
“phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Người viết: “ Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
- Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc
+ Phải
tuyên truyền, vận động nhân dân.
Theo Hồ
Chí Minh: Phải tuyên truyền để nhân dân hiểu và tự nguyện đứng vào khối đại
đoàn kết dân tộc, chứ không được áp đặt.
Để tuyên truyền có hiệu quả, Người yêu cầu: “tuyên truyền phải hết sức giản đơn, ai ai
cũng hiểu được, nhớ được”.
Trên
thực tế, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều cách tuyên truyền trong nhân dân như
viết thơ, viết văn,…( Hòn đá, con cáo và tổ ong, bài ca sợi chỉ…)
+ Phải
chăm lo xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chính trị trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Về Nhà nước: phải xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN thật sự dân chủ, là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Người khẳng định “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân trong xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc.
Đạo đức Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc
- Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và
là đức tính cơ bản của người cách mạng
Kế thừa
những bài học quý giá về đoàn kết trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Đoàn kết thì
thành công, chia rẽ thì thất bại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của
dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng
Đối với
Đảng: Người căn dặn: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đối với
dân tộc, Người khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường
đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm
bức tường đó, chúng cũng phải thất bại. ”
Hồ Chí
Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên muốn đoàn kết: phải cần, kiệm, liêm, chính; hết
lòng hết dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
Đối với cán bộ trong quân đội:
Người nhắc “Cán bộ có thân đội viên như chân tay, thì đội viên mới thân
cán bộ như ruột thịt ” như vậy trên dưới sẽ đoàn kết một lòng.
Nói tóm lại: theo Hồ Chí Minh “ Đoàn kết, đoàn kết...đại thành công”
- Kiên
quyết đấu tranh chống lại những căn bệnh phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Thứ
nhất, phải chống bệnh hẹp hòi.
Theo Hồ Chí Minh: Từ hẹp hòi mà sinh ra kéo bè
kéo cánh, bè phái. “Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người
xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn
nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là
dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất
tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài…
làm mất sự thân ái, đoàn kết”.
+ Thứ
hai, phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ
Chí Minh, những người có tư tưởng chủ nghĩa cá nhân thì việc gì cũng nghĩ đến lợi
ích riêng, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”; “chủ
nghĩa cá nhân là căn bệnh mẹ đẻ ra hàng trăm bệnh con nguy hiểm khác” như: tham ô, lãng phí, quan liêu, độc đoán, gia trưởng,
chuyên quyền… còn chủ nghĩa cá nhân thì chủ nghĩa xã hội mới chỉ thành công một
nửa. Cách tốt nhất để quét sạch chủ nghĩa cá nhân là nâng cao đạo đức cách mạng.
Phong Cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc
- Phong
cách lãnh đạo trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, phong cách lãnh đạo trong thực
hiện đại đoàn kết dân tộc phải luôn “Kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”. Người yêu cầu cán bộ, đảng
viên phải là những người mà: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”.
Để lãnh
đạo đoàn kết được tốt: “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình… Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau”.
- Phong
cách làm việc quần chúng trong tập hợp, đoàn kết toàn dân.
Phải tin
vào dân, tôn trọng dân, chú ý lắng nghe và giải quyết những kiến nghị chính
đáng của nhân dân, sẵn sàng tiếp thu ý kiến dân phê bình và kịp thời sửa chữa
những khuyết điểm, thiếu sót.
Không
ngừng học hỏi kinh nghiệm của nhân dân. Biết biến quyết tâm của Đảng, Nhà nước
thành quyết tâm của nhân dân.
Nhà nước luôn được nhân
dân bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt. Sau 1945, chính phủ ta cơ
sở vật chất gần như không có gì, Tổng ngân quỹ vển vẹn: 1,25 triệu tiền Đông
dương, trong đó 580 nghìn đồng rách đang chờ tiêu hủy, các khoản nợ Chính phủ
bù nhìn, tay sai: 564 triệu. (CP đã phát động “Tuần lễ vàng”
(17 đến 24-9-1945), để nhân dân đóng góp quỹ cho nhà nước. Cả nước đã quyên góp
được 370 kg vàng và 60 triệu đồng, giúp nhà nước vượt qua khó khăn.
+ Nhà nước vì dân: là nhà nước phục vụ lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính.
Là nhà nước vì dân thì “ Việc gì có lợi cho dân
thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có xây dựng được
nhà nước thực sự của dân, do dân thì nhà nước đó mới vì dân.
- Xây dựng
Mặt trận dân tộc và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh
+ Vị
trí, vai trò: Mặt trận dân tộc thống nhất là liên minh chính trị tự nguyện của
tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung: " xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Mặt trận
là nơi tập hợp, đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam yêu nước, không
phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái,…
+ Các
đoàn thể chính trị - xã hội: là cầu nối để đưa những chủ trương chính sách của
Đảng đến với các tầng lớp nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Xây dựng
Mặt trận dân tộc và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh là cơ sở để thực
hiện đại đoàn kết dân tộc.
- Xây
dựng đạo đức trong Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị - xã hội
+ Cán bộ,
đảng viên của Mặt trận dân tộc phải thông suốt và thực hiện đúng chính sách của
Đảng, Nhà nước, đồng thời phải giải thích cho mọi người hiểu thật thấu và làm
cho đúng; không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân.
+ “Công
đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng... công
nhân phải hiểu mình là chủ xí nghiệp, chủ nước nhà, hiểu lao động là vẻ vang,
phải giữ gìn của công, chống tham ô lãng phí…và thực hành tiết kiệm”.
+ Hội
Nông dân thì phải tổ chức nông dân thật chặt chẽ. Đoàn kết nông dân thật khăng
khít. Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
+ Đoàn Thanh niên cần làm đầu tàu, làm gương mẫu
trong phong trào thi đua yêu nước; thực hiện tốt khẩu hiệu “Đâu Đảng cần thì
thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”.
+ Hội
Phụ nữ thực hiện các nhiệm vụ: thắt chặt mối đoàn kết giữa các tầng lớp phụ nữ
trong nước, giữa phụ nữ Việt Nam và phụ nữ các nước bạn cùng phụ nữ dân chủ thế
giới. Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, hăng hái tham gia phong trào chống
tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Hăng hái tham gia chính quyền. Giúp đỡ bộ đội.
Phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch vững mạnh
- phong cách lãnh đạo dân chủ,
quần chúng và phong cách nêu gương
+ Phong cách lãnh đạo dân chủ,
quần chúng
Theo Hồ
Chí Minh: có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những
sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người
khác cũng học theo. Cán bộ lãnh đạo
không nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới và nhân
dân.
Phong cách lãnh đạo dân chủ, quần chúng khiến cho
cấp dưới và nhân dân cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến. Khiến cho cán bộ có gan
phụ trách, có gan làm việc.
Lãnh đạo
là dìu dắt nhân dân. Cho nên, nếu xa nhân dân thì không đoàn kết, lãnh đạo được
nhân dân.
+ Về
phong cách lãnh đạo nêu gương
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là một phong cách
lãnh đạo nhân văn và hiệu quả. Người chỉ rõ: “muốn cho quần chúng hăng hái thi
hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt
chước, làm theo.”
Nói về tính hiệu quả của nêu gương Người chỉ
rõ “ một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”
- Phong
cách tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và phong cách ứng xử chân thành.
+ Về
phong cách tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Đây là phong cách lãnh đạo cơ bản nhất của
chính quyền dân chủ. Việc xây dựng phong cách này nhằm đảm bảo thực hiện hiệu
quả nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng mà lại khắc phục
được tình trạng “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”
+ Về
phong cách ứng xử chân thành
Theo Hồ Chí Minh, ứng xử với nhân dân phải: khiêm
tốn, nhã nhặn, tôn trọng nhân dân. Chân tình, nồng hậu, tự nhiên với nhân dân
như trong một đại gia đình. Xóa đi bức tường ngăn cách giữa cán bộ lãnh đạo với
nhân dân. Từ đó, mới đoàn kết được toàn Đảng, toàn dân.
Nội dung vận dụng
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị
trong sach vững manh hiện nay
Đại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn
lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Đại
đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa
các thành viên trong xã hội.
Trước những khó khăn, thách thức hiện nay, cần phải
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc để tập hợp, đoàn
kết mọi người Việt Nam yêu nước ở cả trong nước và ngoài nước; tăng cường quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội
XII xác định: “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích
chung của quốc gia - dân tộc”.
- Chính
sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc
Nghị
quyết Đại hội lần thứ XII đã xác định:
Đối với
giai cấp công nhân: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp
công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của
công nhân”.
Đối với
giai cấp nông dân: “Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của
quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích
nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ”.
Đối với
đội ngũ trí thức: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo”.
Đối với
đội ngũ doanh nhân: “Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp
và trách nhiệm xã hội cao”.
- Chính
sách với đồng bào, các giới và lứa tuổi nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc
+ Đối với
thế hệ trẻ: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng,
truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối
sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật
cho thế hệ trẻ”.
+ Đối với phụ nữ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời
sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển tài năng”.
+ Đối với
đội ngũ cựu chiến binh: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng
thời động viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống;
tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng cho thế hệ trẻ”
+ Đối với
người cao tuổi: “Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng
thụ văn hóa, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc”.
+ Đối với
đồng bào dân tộc ít người: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm
các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các
dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”.
+ Đối với đồng bào tôn giáo: “Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
+ Đối với
người Việt Nam ở nước ngoài: “Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ,
giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế,
góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước;
được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện
để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách
thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng
đầu và của cả hệ thống chính trị về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Mục
đích: tăng cường sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Yêu cầu:
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đôn
đốc việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện
triệt để Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.
Nâng cao chất lượng các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; toàn dân thi đua làm
kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp.
Tôn
vinh người tốt, việc tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến.
- Lên
án, phê phán, đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, những
hành động coi thường kỷ luật, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.
Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân
và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
- Phát
huy quyền chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội các cấp trong công tác vận động nhân dân phù hợp với đặc điểm từng
giai tầng, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, ngành nghề ở địa phương.
- Tạo
điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực hiện tốt quy định về giám
sát và phản biện xã hội, chủ động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường công tác dân vận của chính quyền
các cấp.
- Tích
cực phối hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội trong tiến hành công tác dân vận.
- Thực
hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, các quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban
nhân dân với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch,
phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Các cấp
ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần
tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
- Trên
cơ sở nhận rõ âm mưu thù, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù
địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nội dung tư tưởng, chính trị và giải pháp
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm phát huy sức mạnh nội lực, tạo động
lực cho công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, của dân tộc.
Hơn một
nửa thế kỷ đã qua từ khi Bác đi xa, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn
luôn đồng hành cùng Đảng, dân tộc và cách mạng Việt Nam; soi sáng, dẫn dắt toàn
Đảng, toàn dân đạt nhiều thành tựu to lớn.
Với tất
cả lòng thành kính và biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi chúng ta
cần đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Người nhằm tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng với
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét