"Chủ nghĩa xã hội làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ". Đó là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên ngày 13 tháng 3 năm
1960. Đúng vào thời điểm miền Bắc đang tiến hành khôi phục, cải tạo và bước đầu
phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, quân và dân miền Nam đang đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng mới.
Quan điểm trên đây của Người cùng với đường
lối, chủ trương đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu hành động của các tầng
lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường cách mạng xã hội
chủ nghĩa, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn làm tròn nghĩa vụ đối
với tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao
nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến
cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ngược lại, con
người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất
quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần
của xã hội. Với tinh thần đó 15 năm sau, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (4-1975), mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ
nguyên độc lập, hòa bình, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến hiện nay, câu nói trên của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị đó thể hiện ở chỗ, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn
đúng đắn, là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Đồng thời, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã mở ra con đường để xây dựng một
Việt Nam phát triển hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ khi đất
nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, kinh tế - xã hội ngày một phát triển,
đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên. Chúng ta có thể so sánh nếu như
năm 2000 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ khoảng 400 USD/người/năm
thì đến năm 2020 đã tăng lên 2.800 USD/người/năm (tăng gấp 7 lần năm 2000). Chính
vì vậy, Ngân hàng Thế giới đưa ra nhận định: “Mây đen phủ lên kinh tế toàn cầu
nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng lên Việt Nam”. Từ sự phát triển của kinh tế đất
nước, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, chất lượng giáo dục, y tế, dịch
vụ chăm sóc sức khỏe... ngày càng hoàn thiện; mỗi công dân Việt Nam có điều kiện
phát triển toàn diện, có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp, có thể trở thành một
công dân toàn cầu.
Có
thể thấy rằng, kinh tế của chúng ta ngày càng tăng trưởng theo hướng triển vọng
trong khu vực và trên thế giới. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc là nguồn lực nội sinh, là năng lượng tiềm tàng tạo thành sức mạnh vĩ đại của
dân tộc trong thời kỳ mới. Trong kỷ nguyênToàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế
hiện nay, lời căn dặn của Bác kính yêu là động lực soi sáng để toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta vững tin hơn, kiên định hơn vào mục tiêu độc lập dân tộc và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đời sống nhân dân có được ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện thì mới xây dựng được niềm tin nơi nhân dân, thế
trận lòng dân mới ngày một vững chắc, như bức thành đồng Tổ quốc trước mọi cơn
sóng gió, đập tan mọi nguy nan, hiểm họa, sự chống phá của các thế lực âm mưu “Diễn biến hòa bình”, “Bạo loạn lật đổ”./.
N.D.M - K3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét