“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vừa là đạo lý thiêng liêng, vừa là giá trị đạo đức và lối ứng xử cao đẹp trong dời sống văn hóa của người Việt. Truyền thống tốt đẹp này đã và đang được nhân dân phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, đúc kết truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc thành một trong những nội dung tư tưởng của Người. Đồng thời, Người là tấm gương sáng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thương binh, liệt sĩ.
Năm 1945, Cách
mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được
bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả
cách mạng, “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng
chiến đấu, ngăn chặn bọn xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến
có nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi
của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “Nhân ái, thủy chung” của
dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ,
đặc biệt là những người bị thương hoặc đã anh dũng hy sinh.
Đầu năm 1946,
“Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa
phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở
Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của
Tổng Hội.
Chiều ngày
11/7/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho
chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác
Hồ đã cởi chiếc áo rét mà Bác đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ,
nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên.
Năm 1946, những
ngày tháng cam go chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho các thương binh, liệt sỹ. Người đã ra
thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi với một tấm lòng thành
kính.
“Tôi muốn thay
mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh
tính mệnh của mình cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc
trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân
ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của
tôi”.
Trước yêu cầu
thực tế đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ,
ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ
hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng
định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng
chiến cứu nước của dân tộc.
Tháng 6/1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày thương binh” để
nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sỹ
và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị
trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở
xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày
27/7/1947 làm “Ngày thương binh, liệt sỹ”. Từ đó, ngày 27/7 hằng năm trở thành
“Ngày thương binh, liệt sỹ” trong cả nước.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ
chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết
quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…” Chiến tranh kết
thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có không ít những
người mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình -
các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Hằng năm, đều đặn
cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương
binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động
viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên
người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ
kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”
Chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện ở sự đồng cảm với những người thân trong gia đình bị mất con, em
vì hy sinh cho Tổ quốc, song rất đỗi tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”. Thật vô
cùng xúc động và cảm kích khi đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bác sỹ Phạm
Đình Tụng, khi được tin con trai ông hy sinh: “Ngài biết rằng tôi không có gia
đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh
niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một
đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất
nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc
sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt
Nam”[1]
Trong mọi hoàn
cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu dài, chứ
không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi
thương binh, những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một hệ thống giải pháp
căn cơ, lâu dài, trên mọi phương diện, từ việc làm đến thu nhập, từ việc học đến
đào tạo nghề, từ giúp đỡ, hỗ trợ của tập thể đến phát huy tính năng động, sáng
tạo của mỗi cá nhân…
Trong Bản Di
chúc lịch sử, trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã
hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương
binh và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình. Đảng,
Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng
thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự
lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương, cần xây dựng vườn hoa và
bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh
thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt
sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ
cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[2]. Chính sách này của Hồ Chí Minh cũng rất
giống với triết lý của chủ nghĩa Mác: Đã là con người, trước hết phải có ăn, mặc,
ở, sau đó mới nói đến chính trị. Tính thiết thực của chính sách đối với con người
của Hồ Chí Minh thể hiện rất đậm nét, hiện thực và đầy tình người; cũng rất
công bằng, dân chủ trong xã hội mới.
Trong quan niệm
của Hồ Chí Minh, chính sách bảo đảm nhu cầu thiết yếu của cuộc sống con người
chỉ nhằm bù đắp những thiếu hụt; cung cấp những phúc lợi trong giới hạn nhất định.
Nghĩa là, những đối tượng thụ hưởng muốn đủ ăn, đủ mặc, tiến lên khá, giàu thì
phải biết “tự lực cánh sinh”, biết vươn lên trong cuộc sống mưu sinh. Mặt khác,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong); cha mẹ, vợ
con của thương binh và liệt sĩ có thể “tự lực cánh sinh” trong cuộc sống hàng
ngày, Đảng và Chính phủ cần có chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội, giải
quyết công ăn, việc làm, thu nhập, giáo dục nghề nghiệp. Đây là gốc rễ của việc
thực hiện chính sách với những người có công to lớn đối với đất nước và dân tộc.
Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần và nghị lực của những người thương binh “tàn
nhưng không phế”. Người động viên thương binh: “Trước kia anh em đã xung phong
diệt giặc thì ngày nay anh em tùy điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất”[3]. Đáp lại tình cảm ấy, bằng tinh thần và
nghị lực của “Anh bộ đội Cụ Hồ”, nhiều thương bệnh binh và gia đình
liệt sĩ đã cố gắng vươn lên, tự lực cánh sinh trong lao động, sản xuất, học tập
và cuộc sống. Họ không những đã tạo ra việc làm cho mình và gia đình, mà còn
tích cực giúp đỡ đồng bào và con em của họ, tạo dựng nên cuộc sống có ích hơn,
tươi đẹp hơn. Họ đã làm đúng theo lời Người dạy: “Thương binh tàn mà không
phế”. Ngày 31/7/1969, Bác Hồ đã tặng Huy hiệu của Người cho 10 thương binh
gương mẫu, tận tụy với công tác sản xuất, lập nhiều thành tích trên mặt trận mới.
Đây là lần tặng Huy hiệu cuối cùng của Bác cho các thương binh. Ngày 1/9/1969,
chỉ trước khi Người mất một ngày, vẫn có vòng hoa của Người gửi viếng các liệt
sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Hà Nội (Mai Dịch).
Thực hiện lời
răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với truyền thống và đạo lý của dân tộc,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế
độ ưu đãi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng.
“Đền ơn, đáp nghĩa” ngày nay đã trở thành một phong trào sâu rộng, có sức lan tỏa
lớn lao và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp tích cực, chủ động tham gia, mang tính hiệu quả và thiết thực. Hằng
năm, Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 đã trở thành ngày toàn dân tưởng nhớ, tri
ân những người có công với nước. Từ đó có những việc làm thiết thực, thường
xuyên để giúp gia đình, con em những người đã hy sinh, mang thương tật vơi bớt
khó khăn trong cuộc sống. Nhiều phong trào như “xây nhà tình nghĩa",
"xoá nhà dột nát"...”. Các cuộc vận động quỹ "đền ơn
đáp nghĩa", “Chung tay xây dựng nghĩa trang” đã được toàn dân hưởng ứng
mang lại hiệu quả cao.
Kỷ niệm 74 năm,
Ngày Thương binh, Liệt sĩ trên khắp mọi miền của Tổ quốc, toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta đang ra sức chống dịch bệnh Covid -19 nhưng cũng không quên chuẩn
bị thật chu đáo Lễ kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7. Việc làm này thể hiện
sự biết ơn, tri ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với những gia đình đã có
người hy sinh vì Tổ Quốc. Làm tốt công tác Thương binh Liệt sĩ và chính sách đối
với những người có công với cách mạng chính là phát huy đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn”, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc; là thể hiện ý thức, trách nhiệm, lòng biết
ơn, khơi dậy tinh thần yêu đất nước, yêu dân tộc Việt Nam; từ đó khơi dậy niềm
tự hào về truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc; giữ vững niềm tin vào sự
nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
T.H.H - H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét