CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2021

BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

 

“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vừa là đạo lý thiêng liêng, vừa là giá trị đạo đức và lối ứng xử cao đẹp trong dời sống văn hóa của người Việt. Truyền thống tốt đẹp này đã và đang được nhân dân phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, đúc kết truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc thành một trong những nội dung tư tưởng của Người. Đồng thời, Người là tấm gương sáng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thương binh, liệt sĩ.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn bọn xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến có nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.

Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “Nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ, đặc biệt là những người bị thương hoặc  đã anh dũng hy sinh.

Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.

Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét mà Bác đang mặc để tặng binh sĩ.

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên.

Năm 1946, những ngày tháng cam go chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho các thương binh, liệt sỹ. Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi với một tấm lòng thành kính.

“Tôi muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh của mình cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.

Trước yêu cầu thực tế đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.

Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày thương binh” để nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày thương binh, liệt sỹ”. Từ đó, ngày 27/7 hằng năm trở thành “Ngày thương binh, liệt sỹ” trong cả nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…” Chiến tranh kết thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có không ít những người mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình - các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.

Hằng năm, đều đặn cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”

Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở sự đồng cảm với những người thân trong gia đình bị mất con, em vì hy sinh cho Tổ quốc, song rất đỗi tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”. Thật vô cùng xúc động và cảm kích khi đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bác sỹ Phạm Đình Tụng, khi được tin con trai ông hy sinh: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam”[1]

Trong mọi hoàn cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một hệ thống giải pháp căn cơ, lâu dài, trên mọi phương diện, từ việc làm đến thu nhập, từ việc học đến đào tạo nghề, từ giúp đỡ, hỗ trợ của tập thể đến phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân…

Trong Bản Di chúc lịch sử, trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương binh và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình. Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương, cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[2]. Chính sách này của Hồ Chí Minh cũng rất giống với triết lý của chủ nghĩa Mác: Đã là con người, trước hết phải có ăn, mặc, ở, sau đó mới nói đến chính trị. Tính thiết thực của chính sách đối với con người của Hồ Chí Minh thể hiện rất đậm nét, hiện thực và đầy tình người; cũng rất công bằng, dân chủ trong xã hội mới.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chính sách bảo đảm nhu cầu thiết yếu của cuộc sống con người chỉ nhằm bù đắp những thiếu hụt; cung cấp những phúc lợi trong giới hạn nhất định. Nghĩa là, những đối tượng thụ hưởng muốn đủ ăn, đủ mặc, tiến lên khá, giàu thì phải biết “tự lực cánh sinh”, biết vươn lên trong cuộc sống mưu sinh. Mặt khác, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong); cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ có thể “tự lực cánh sinh” trong cuộc sống hàng ngày, Đảng và Chính phủ cần có chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết công ăn, việc làm, thu nhập, giáo dục nghề nghiệp. Đây là gốc rễ của việc thực hiện chính sách với những người có công to lớn đối với đất nước và dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần và nghị lực của những người thương binh “tàn nhưng không phế”. Người động viên thương binh: “Trước kia anh em đã xung phong diệt giặc thì ngày nay anh em tùy điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất”[3]. Đáp lại tình cảm ấy, bằng tinh thần và nghị lực của “Anh bộ đội Cụ Hồ”, nhiều thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ đã cố gắng vươn lên, tự lực cánh sinh trong lao động, sản xuất, học tập và cuộc sống. Họ không những đã tạo ra việc làm cho mình và gia đình, mà còn tích cực giúp đỡ đồng bào và con em của họ, tạo dựng nên cuộc sống có ích hơn, tươi đẹp hơn. Họ đã làm đúng theo lời Người dạy: “Thương binh tàn mà không phế”. Ngày 31/7/1969, Bác Hồ đã tặng Huy hiệu của Người cho 10 thương binh gương mẫu, tận tụy với công tác sản xuất, lập nhiều thành tích trên mặt trận mới. Đây là lần tặng Huy hiệu cuối cùng của Bác cho các thương binh. Ngày 1/9/1969, chỉ trước khi Người mất một ngày, vẫn có vòng hoa của Người gửi viếng các liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Hà Nội (Mai Dịch).

Thực hiện lời răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với truyền thống và đạo lý của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. “Đền ơn, đáp nghĩa” ngày nay đã trở thành một phong trào sâu rộng, có sức lan tỏa lớn lao và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tích cực, chủ động tham gia, mang tính hiệu quả và thiết thực. Hằng năm, Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 đã trở thành ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước. Từ đó có những việc làm thiết thực, thường xuyên để giúp gia đình, con em những người đã hy sinh, mang thương tật vơi bớt khó khăn trong cuộc sống. Nhiều phong trào như “xây nhà tình nghĩa", "xoá nhà dột nát"...”. Các cuộc vận động quỹ "đền ơn đáp nghĩa", “Chung tay xây dựng nghĩa trang” đã được toàn dân hưởng ứng mang lại hiệu quả cao.

Kỷ niệm 74 năm, Ngày Thương binh, Liệt sĩ trên khắp mọi miền của Tổ quốc, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang ra sức chống dịch bệnh Covid -19 nhưng cũng không quên chuẩn bị thật chu đáo Lễ kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7. Việc làm này thể hiện sự biết ơn, tri ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với những gia đình đã có người hy sinh vì Tổ Quốc. Làm tốt công tác Thương binh Liệt sĩ và chính sách đối với những người có công với cách mạng chính là phát huy đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc; là thể hiện ý thức, trách nhiệm, lòng biết ơn, khơi dậy tinh thần yêu đất nước, yêu dân tộc Việt Nam; từ đó khơi dậy niềm tự hào về truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc; giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

                                                                      T.H.H - H2



[1] Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Mục lục Tài liệu sưu tầm, hồ sơ 44, tờ 01

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.503.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 7, tr.456.

0 nhận xét: