CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

  

Quân đội Nhân dân Việt Nam là một bộ phận của xã hội, của kiến trúc thượng tầng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũng là thuộc tính bản chất của quân đội ta. Dân chủ XHCN được biểu hiện sinh động trong các quan hệ và hoạt động của quân đội. Đó là những quan hệ cơ bản, những nguyên tắc, cơ chế hoạt động bảo đảm quyền làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ. “Dân chủ trong quân đội là một bộ phận hữu cơ của dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự vận dụng nền dân chủ đó vào những điều kiện của một tổ chức quân sự”[1].

Quan hệ giữa Đảng và quân đội là quan hệ cơ bản quyết định bản chất GCCN của quân đội ta. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo như quan hệ giữa Đảng và các tổ chức xã hội khác, nhưng quan hệ giữa Đảng và quân đội là quan hệ giữa lãnh đạo với tổ chức xã hội đặc biệt - quân đội, công cụ bạo lực của nhà nước XHCN. Mặc dù là công cụ bạo lực của nhà nước XHCN, nhưng quân đội ta không phải là công cụ được sử dụng để đàn áp nhân dân như quân đội tư sản, mà là công cụ để bảo vệ chế độ, bảo vệ địa vị, quyền làm chủ cho nhân dân, đồng thời có địa vị chính trị như các tổ chức xã hội khác đối với quyền lực nhà nước. Đảng ta đại biểu lợi ích trung thành cho dân tộc, giai cấp, ngoài lợi ích dân tộc, giai cấp, Đảng không có lợi ích nào khác. Cho nên, quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo không đại diện cho đặc quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, đối lập nhau giữa Đảng và quân đội.

Dân chủ bao giờ cũng gắn liền với sự bình đẳng về chính trị giữa các thành viên trong xã hội, trong một tổ chức xã hội. Trong quân đội ta, quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa các quân nhân là quan hệ trên tình hữu ái giai cấp, quan hệ của những người cùng địa vị làm chủ trong quân đội. Quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ là quan hệ giữa mệnh lệnh và phục tùng, mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, của người chỉ huy, chiến sĩ phải chấp hành vô điều kiện. Nhưng sự phục tùng đó không phải thụ động, mù quáng một chiều như quân đội của giai cấp thống trị, mà trên cơ sở giác ngộ cách mạng, tự giác, ý thức được tính tất yếu và nghĩa vụ của mỗi quân nhân đối với nhiệm vụ chung. Sự khác nhau về cấp bậc, chức vụ giữa cán bộ với chiến sĩ không phải đại diện đặc quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, mà do sự phân công, giao trách nhiệm của Đảng, của tổ chức vì lợi ích chung.

Trong quân đội ta, cán bộ và chiến sĩ có những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định do Đảng và Nhà nước trao cho, nhưng không phải như sĩ quan của một quân đội tư sản đế quốc, giai cấp đặc quyền, vượt lên trên hết, chiến sĩ không phải là kẻ nô lệ, làm thuê và đánh thuê, phục tùng mù quáng. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta là những chiến sĩ tự giác của giai cấp, của dân tộc, đều bình đẳng về chính trị và nhân cách, đều là chủ nhân của quân đội.

Quan hệ giữa quân đội và nhân dân là quan hệ máu thịt. Đây là thuộc tính bản chất của quân đội ta. Bởi vì, cán bộ, chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhấn mạnh, chú trọng trong xây dựng quân đội ta. Lợi ích và địa vị giữa nhân dân và quân đội là thống nhất, trên cơ sở lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp được tôn trọng.

Những quan hệ trên phản ánh nội dung, bản chất dân chủ XHCN. Ở đó không có sự khác biệt, đối lập nhau về lợi ích, địa vị chính trị, đặc quyền, đặc lợi, tức là giữa các thành viên trong xã hội, trong mỗi tổ chức xã hội đều bình đẳng. Điều đó nói lên giá trị nhân đạo, nhân văn của các quan hệ này, đồng thời dân chủ đã bao hàm kỷ luật tự giác, kỷ luật của GCCN. “Bản thân nguyên tắc bình đẳng trong nội dung khái niệm dân chủ cũng nói lên sự thống nhất giữa dân chủ và kỷ luật”[2]. Sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói chung, hoàn thiện dân chủ XHCN trong quân đội nói riêng không thể không phát huy những quan hệ đó một cách thiết thực, khoa học.

Dân chủ XHCN trong quân đội ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt động giữa các tổ chức bảo đảm cho quyền làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ. Các nguyên tắc và cơ chế hoạt động này vừa là điều kiện, vừa là nội dung của dân chủ XHCN, đồng thời được vận dụng, cụ thể hoá vào xây dựng quân đội, hoàn thiện dân chủ XHCN trong quân đội. Đó là thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ trong tổ chức đảng, mà còn thực hiện nguyên tắc này trong xây dựng và hoạt động của bộ máy các tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết các mối quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng, cấp trên và cấp dưới, bộ phận và toàn bộ. Việc thực hiện các nguyên tắc và cơ chế hoạt động trên vừa bảo đảm tính tổ chức, tính kỷ luật, vừa bảo đảm quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ được thực thi trên thực tế.

Mặc dù trong quân đội, cơ chế mệnh lệnh, phục tùng mang tính trội, nhưng cơ chế đó không những không hạn chế dân chủ, mà còn tạo điều kiện, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ. Bởi vì, kỷ luật quân đội ta là kỷ luật tự giác, kỷ luật của tổ chức gồm những quân nhân cùng có quyền làm chủ. Việc thực thi dân chủ XHCN trong quân đội ta vừa bảo đảm cho kỷ luật được củng cố, tăng cường, vừa bảo đảm quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ./.

ĐHQ-H2

 



[1] Trần Xuân Trường (1998), Một số vấn đề giáo dục xã hội chủ nghĩa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H.1998, tr.19

[2] Nguyễn Ngọc Long (1991), “Dân chủ và kỷ luật”, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.48.

 

Related Posts:

0 nhận xét: