Quân đội Nhân dân Việt Nam là
một bộ phận của xã hội, của kiến trúc thượng tầng của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũng là
thuộc tính bản chất của quân đội ta. Dân chủ XHCN được biểu hiện sinh động
trong các quan hệ và hoạt động của quân đội. Đó là những quan hệ cơ bản, những
nguyên tắc, cơ chế hoạt động bảo đảm quyền làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ.
“Dân chủ trong quân đội là một bộ phận hữu cơ của dân chủ xã hội chủ nghĩa, là
sự vận dụng nền dân chủ đó vào những điều kiện của một tổ chức quân sự”[1].
Quan hệ giữa Đảng và quân đội là
quan hệ cơ bản quyết định bản chất GCCN của quân đội ta. Đây là quan hệ giữa
lãnh đạo và bị lãnh đạo như quan hệ giữa Đảng và các tổ chức xã hội khác, nhưng
quan hệ giữa Đảng và quân đội là quan hệ giữa lãnh đạo với tổ chức xã hội đặc
biệt - quân đội, công cụ bạo lực của nhà nước XHCN. Mặc dù là công cụ bạo lực
của nhà nước XHCN, nhưng quân đội ta không phải là công cụ được sử dụng để đàn
áp nhân dân như quân đội tư sản, mà là công cụ để bảo vệ chế độ, bảo vệ địa vị,
quyền làm chủ cho nhân dân, đồng thời có địa vị chính trị như các tổ chức xã
hội khác đối với quyền lực nhà nước. Đảng ta đại biểu lợi ích trung thành cho
dân tộc, giai cấp, ngoài lợi ích dân tộc, giai cấp, Đảng không có lợi ích nào
khác. Cho nên, quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo không đại diện cho đặc
quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, đối lập nhau giữa Đảng và quân đội.
Dân chủ bao giờ cũng gắn liền với
sự bình đẳng về chính trị giữa các thành viên trong xã hội, trong một tổ chức
xã hội. Trong quân đội ta, quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa các quân nhân
là quan hệ trên tình hữu ái giai cấp, quan hệ của những người cùng địa vị làm
chủ trong quân đội. Quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ là quan hệ giữa mệnh lệnh
và phục tùng, mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, của người chỉ huy, chiến sĩ
phải chấp hành vô điều kiện. Nhưng sự phục tùng đó không phải thụ động, mù
quáng một chiều như quân đội của giai cấp thống trị, mà trên cơ sở giác ngộ
cách mạng, tự giác, ý thức được tính tất yếu và nghĩa vụ của mỗi quân nhân đối
với nhiệm vụ chung. Sự khác nhau về cấp bậc, chức vụ giữa cán bộ với chiến sĩ
không phải đại diện đặc quyền, đặc lợi, địa vị chính trị khác nhau, mà do sự
phân công, giao trách nhiệm của Đảng, của tổ chức vì lợi ích chung.
Trong quân đội ta, cán bộ và chiến
sĩ có những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định do Đảng và Nhà nước trao cho, nhưng
không phải như sĩ quan của một quân đội tư sản đế quốc, giai cấp đặc quyền,
vượt lên trên hết, chiến sĩ không phải là kẻ nô lệ, làm thuê và đánh thuê, phục
tùng mù quáng. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta là những chiến sĩ tự giác của
giai cấp, của dân tộc, đều bình đẳng về chính trị và nhân cách, đều là chủ nhân
của quân đội.
Quan hệ giữa quân đội và nhân dân
là quan hệ máu thịt. Đây là thuộc tính bản chất của quân đội ta. Bởi vì, cán
bộ, chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Điều đó được Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhấn mạnh, chú trọng trong xây dựng quân đội ta. Lợi
ích và địa vị giữa nhân dân và quân đội là thống nhất, trên cơ sở lợi ích dân
tộc, lợi ích giai cấp được tôn trọng.
Những quan hệ trên phản ánh nội
dung, bản chất dân chủ XHCN. Ở đó không có sự khác biệt, đối lập nhau về lợi
ích, địa vị chính trị, đặc quyền, đặc lợi, tức là giữa các thành viên trong xã
hội, trong mỗi tổ chức xã hội đều bình đẳng. Điều đó nói lên giá trị nhân đạo,
nhân văn của các quan hệ này, đồng thời dân chủ đã bao hàm kỷ luật tự giác, kỷ
luật của GCCN. “Bản thân nguyên tắc bình đẳng trong nội dung khái niệm dân chủ
cũng nói lên sự thống nhất giữa dân chủ và kỷ luật”[2].
Sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói chung, hoàn thiện dân chủ XHCN trong quân
đội nói riêng không thể không phát huy những quan hệ đó một cách thiết thực,
khoa học.
Dân chủ XHCN trong quân đội ta thể
hiện ở nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt động giữa các tổ chức bảo đảm cho quyền
làm chủ thuộc về cán bộ, chiến sĩ. Các nguyên tắc và cơ chế hoạt động này vừa
là điều kiện, vừa là nội dung của dân chủ XHCN, đồng thời được vận dụng, cụ thể
hoá vào xây dựng quân đội, hoàn thiện dân chủ XHCN trong quân đội. Đó là thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ trong tổ chức đảng, mà còn thực
hiện nguyên tắc này trong xây dựng và hoạt động của bộ máy các tổ chức chỉ huy,
tổ chức quần chúng, các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết các mối
quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng, cấp trên và cấp dưới, bộ phận và toàn bộ.
Việc thực hiện các nguyên tắc và cơ chế hoạt động trên vừa bảo đảm tính tổ
chức, tính kỷ luật, vừa bảo đảm quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ được thực
thi trên thực tế.
Mặc dù trong quân đội, cơ chế mệnh
lệnh, phục tùng mang tính trội, nhưng cơ chế đó không những không hạn chế dân
chủ, mà còn tạo điều kiện, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ. Bởi vì,
kỷ luật quân đội ta là kỷ luật tự giác, kỷ luật của tổ chức gồm những quân nhân
cùng có quyền làm chủ. Việc thực thi dân chủ XHCN trong quân đội ta vừa bảo
đảm cho kỷ luật được củng cố, tăng cường, vừa bảo đảm quyền làm chủ của cán bộ,
chiến sĩ./.
ĐHQ-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét