Với
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp
chúng ta nhìn rõ bản chất sự vận động của tình hình thế giới. Đó cũng là cơ sở
vững chắc cho việc hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới, để phát huy sức mạnh tổng hợp
của dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0,
đưa đất nước vững bước trong quá trình thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Thực
tiễn sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, tạo ra thế và lực mới, là chỗ dựa vững chắc để tiếp tục chủ động, tích cực
hội nhập và phát triển. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã đạt
được những kết quả rất quan trọng, tiếp tục tạo thêm nguồn lực cho phát triển
kinh tế.
Tuy
công tác hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của nước ta đang phải đối diện với
không ít khó khăn, thách thức; vấn đề ngày càng nổi lên rõ nét là chủ nghĩa bảo
hộ; mất cân đối thương mại toàn cầu vẫn chưa được cải thiện, làm gia tăng xung
đột thương mại, cạnh tranh chiến lược và cọ sát kinh tế, đặc biệt giữa các nền
kinh tế chủ chốt… Nhưng, Việt Nam vẫn kiên trì chủ trương HNKTQT toàn diện với
trọng tâm là HNKTQT, coi HNKTQT và tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách
quan… từ đó, đạt được những thành tựu quan trọng đó là:
Thứ
nhất, HNKTQT đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nền kinh tế nước
ta từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) ngày càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được
cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng
lên. Theo đó, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là một trong những nền
kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển
vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được
bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển. Quy mô kinh tế năm 2019 đạt 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ
USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới theo GDP
danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.
Thứ
hai, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH.
GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018),
khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong
năm 2007, tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Nhưng,
4 năm sau đó (giai đoạn 2011 – 2013) tăng trưởng GDP giảm xuống còn 5,6%, do ảnh
hưởng từ những biến động của kinh tế thế giới. Đến năm các năm tiếp theo có nhiều
khởi sắc: năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt
6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 240 tỷ USD, bình quân đầu
người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua
(2008-2018).
Thứ
ba, HNKTQT thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của nước ta phát triển mạnh
giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), mở rộng thị trường đa dạng các loại
hàng hóa tham gia XNK. Nước ta đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu
với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP.
Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, đã chuyển sang cân bằng XNK, thậm chí là xuất
siêu. Hiện đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là
thành viên của WTO, đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều
sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu
cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ...
Thứ
tư, HNKTQT sâu rộng hơn góp phần đưa nước ta trở thành một “mắt xích” quan
trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới
(gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2 Hiệp định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán
bảo đảm cho kết nối thương mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90%
kim ngạch thương mại của Việt Nam); đồng thời, tạo động lực mới và cả “sức ép”
mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý,
chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày
càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch
hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng
hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.
Thứ
năm, thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta đạt được nhiều kết quả ấn tượng.
Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam nằm trong
12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số
vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI
vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện
trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn 2018-2020. Việt Nam từng bước trở
thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt
may, da giầy, điện thoại di động...
Những thành
tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là không thể phủ nhận, là bằng
chứng sinh động khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc./.
LXD-H3
1 nhận xét:
Việt Nam hiện nay đang là một quốc gia có độ mở lớn! Sau 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội! Điều đó không thể phủ nhận mà trên thực tiễn đã đã đạt được!
Đăng nhận xét