Các văn kiện Đại hội XIII của Đảng
mang tính khái quát cao, đánh giá toàn diện, tổng thể, trong đó có những vấn đề
vừa có tính kế thừa những kết quả đạt được, tổng kết kinh nghiệm của những giai
đoạn trước, đồng thời bổ sung những quan điểm, tư duy mới trong phát triển kinh
tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng chính
quyền, giữ vững an ninh - quốc phòng. Tư tưởng "kế thừa" trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng được thể hiện trên một số vấn đề chính:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn mục tiêu
và mô hình xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu
lý tưởng của Đảng và dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng, ngày càng cụ thể và sâu sắc trong các cương lĩnh, văn kiện sau này. Đại
hội XI nêu bật 8 đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”1. Đại hội XII, Đảng nhận thức sâu sắc hơn mối
quan hệ khăng khít, biện chứng giữa các đặc trưng cơ bản về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nội hàm của từng đặc trưng
được bổ sung những nhận thức mới, phù hợp với tình hình mới, yêu cầu mới, nổi
bật là nhận thức về vai trò là chủ, làm chủ của nhân dân; về phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, hiện đại hóa lực lượng sản xuất trên nền tảng khoa học và công
nghệ gắn với quan hệ sản xuất đồng bộ, tiến bộ, phù hợp; về vai trò là sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển của văn hóa, vai trò chủ thể và trung tâm của con
người; về đoàn kết dân tộc, sự gắn bó dân tộc và nhân loại, quốc gia và quốc tế
trong xu thế toàn cầu hóa; về dân chủ và pháp quyền; về lợi ích tối cao của
quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế…
Trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát
triển những nhận thức mới trong xác định mục tiêu, bao gồm mục tiêu tổng
quát và mục tiêu cụ thể. Đại hội XIII của Đảng bổ sung “năng lực cầm
quyền” vào nội dung “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng”;
bổ sung “hệ thống chính trị”, “toàn diện”, “tăng cường niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”; xác
định “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thư hai, nhận thức rõ những vấn đề
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII nêu rõ: Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò
định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công
cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Đại hội XIII của Đảng bổ sung và
phát triển lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh"1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế liên quan
chặt chẽ với nhau, hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố, phát
triển, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Cần nhận
thức đúng và xử lý hiệu quả quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
Thứ ba, nhận thức rõ hơn về những
đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước thật sự của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đề
cao vai trò thượng tôn pháp luật trong quản lý xã hội, trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước. Nhà nước bảo đảm quyền của công dân, quyền và lợi ích chính
đáng của con người. Nhà nước, công dân, con người đề cao trách nhiệm pháp lý.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam tôn trọng các văn bản luật pháp quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết, tham gia. Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước không
ngừng thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đại hội XIII bổ sung, phát triển
nội hàm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Xác định rõ hơn vai
trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc
pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành
mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ
thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, ổn đỉnh, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mói sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững”[1].
Bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, là bước phát triển mạnh
mẽ về lý luận, phản ánh sâu sắc những giá trị phổ quát của thế giới, nhất là nhà
nước thượng tôn pháp luật trong tổ chức và hoạt động; tôn trọng và bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi
người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ
thông qua hoạt động của nhà nước, của hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Thứ tư, nhận thức và giải quyết các
mối quan hệ lớn mang tính quy luật của sự phát triển xã hội, đất nước.
Đại hội XI xác định: “Quan hệ giữa
đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”[2].
Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa” bằng mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật của thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” và bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà
nước và thị trường”; Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII đã phát triển thành mối
quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Sự điều chỉnh, bổ sung mối quan
hệ mới nhằm tiếp tục phát triển nhận thức lý luận và cụ thể hóa trong những quyết
sách và định hướng quan trọng, bảo đảm đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém, phát triển đất nước
nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII của Đảng làm rõ mối
quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội: “Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt
chẽ”1.
Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể
chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân
đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trương hoạt động; điều tiết, định
hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường,
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ
chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và
lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị
trưòng.
Thị trường đóng vai trò quyết định
trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu
quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của
doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.
Các tổ chức xã hội có vai trò tạo
sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các
thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các
chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh
nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản
biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Đại hội XIII của Đảng, bổ sung mối
quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Đây là quá trình nghiên cứu, đánh giá hạn chế trong việc thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở một số nơi còn mang tính hình thức, không phát huy được vai
trò, sức mạnh của nhân dân trong lao động sáng tạo, xây dựng đời sống cộng
đồng. Thực tế, không ít nơi, kỷ luật, kỷ cương xã hội không được bảo đảm, nảy
sinh những mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, trong quan hệ giữa nhân dân với cán
bộ và cơ quan chính quyền không được phát hiện, xử lý kịp thời, dẫn đến những
vụ việc đáng tiếc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Do đó, cần phải có giải
pháp đổi mới nội dung, phương pháp thực hiện để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đi
vào cuộc sống thực chất và thực tế, thực sự bảo vệ được các quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân, khẳng định và phát huy được vai trò làm chủ của nhân
dân. Bên cạnh đó, thực hành dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương xã hội, phân định rõ quyền, lợi ích và trách nhiệm, nghĩa vụ của
người dân; phân biệt rõ nội dung dân chủ và chế độ kỷ luật, kỷ cương xã hội để
bảo đảm công bằng cho mọi người dân trước pháp luật, trước yêu cầu chung của
cộng đồng, duy trì cuộc sống an toàn, trật tự và bình yên.
Trong nhận thức và giải quyết các
quan hệ lớn, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần chú trọng hơn đến bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường; bảo về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại với quan điểm khách quan,
toàn diện, phát triển, đặc biệt là tư tưởng kế thừa, Đại hội XIII của Đảng đã
đánh giá đúng đắn, sâu sắc về tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Khẳng
định: Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam
trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
N.T.L - H2
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQGST, H. 2011, tr.70.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.128.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.174 - 175.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thưa XI, Nxb CTQGST,
H. 2011, tr.72-73
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.130.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét