Chủ nghĩa
Mác-Lênin đã luận giải khoa học về sự thay thế của những hình thái KT-XH từ thấp
đến cao là quá trình lịch sử-tự nhiên, là do vận động của những quy luật KT-XH khách
quan. Với quan điểm duy vật biện chứng khoa học, các nhà kinh điển Mác-xít đã
chỉ ra hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa tất yếu ra đời và thay thế hình thái
KT-XH TBCN. Nó phải trải qua “một thời kỳ và hai giai đoạn”, đó là thời kỳ quá
độ, giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình thái KT-XH
cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất so với hình thái KT-XH
TBCN nên phải trải qua quá trình cải biến cách mạng lâu dài; không bao giờ tự
phát hình thành mà thông qua vận động của các quy luật về KT-XH, con đường đấu
tranh cách mạng để xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và xây dựng xã hội
mới. Hệ thống lý luận cơ bản đó của Chủ nghĩa Mác-Lênin là cách mạng, khoa học,
được vận dụng thành công ở nước Nga từ năm 1917. CNXH từ lý luận trở thành hiện
thực, từ một nước phát triển thành hệ thống chính trị thế giới đối lập với hệ
thống TBCN trong hơn bẩy thập niên.
Về thực tiễn, CNXH hiện thực ra đời đã thể hiện tính ưu việt hơn CNTB.
Công cuộc
xây dựng CNXH ở nước Nga, sau đó là Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã
giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Sản lượng công nghiệp chiếm
20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới; sản lượng điện đạt 440 tỷ kWh (gấp hơn
300 lần so với năm 1913; bằng 4 nước lớn là Anh, Pháp, Đức, Italy cộng lại); dầu
mỏ đạt 353 triệu tấn, than 624 triệu tấn, thép 121 triệu tấn (vượt sản lượng của
Mỹ). Có thể thấy, trong một thời gian ngắn, CNXH ra đời ở Liên Xô và nhiều nước
XHCN tuy chưa hoàn thiện nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về
chất so với CNTB. Điều đó cho thấy, CNXH là một hiện thực, hoàn toàn không phải
là “giấc mơ”, cũng chẳng phải là “ảo tưởng về một thiên đường” như các thế lực
thù địch rêu rao! Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) chỉ là sự
đổ vỡ của một mô hình cụ thể do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, chứ
không phải do Chủ nghĩa Mác-Lênin hay lý tưởng về CNXH đã lỗi thời, lạc hậu.
Mặc dù CNTB
đạt được những thành tựu to lớn nhưng chủ yếu đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản
mà không vì lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Những mâu thuẫn
nội tại và đối kháng trong xã hội TBCN chỉ giải quyết bằng con đường tất yếu là
cách mạng XHCN. Trong bối cảnh hiện nay, CNTB đã có những thích nghi, phát triển
nhất định nhờ tận dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại,
toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Các nước XHCN đang ở giai đoạn khó khăn tạm
thời, song theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, CNTB sẽ bị xóa bỏ,
chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH ưu việt hơn sẽ ra đời, tồn tại và
phát triển.
Đối với cách
mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có 30 năm bôn ba ở nước ngoài, đến các
nước tư bản phát triển, đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm lược và đô hộ của
chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Người khẳng định, muốn giành lại được độc lập
cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế độ
XHCN. Từ năm 1930, “Chánh cương vắn tắt” của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua đã xác định rõ đường
lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1991, Đảng đã ban hành “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, trong đó chỉ ra 6 đặc trưng cơ bản của chế
độ XHCN ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển
sáng tạo thành 8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc trưng bao trùm là
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hơn 90 năm được rèn giũa,
tôi luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng sôi động, phong phú, Đảng Cộng sản
Việt Nam có bản lĩnh chính trị, có trí tuệ, có khả năng lãnh đạo thành công
công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi
hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc lớn trong thế kỷ 20, thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu
(trước đây) bị khủng hoảng, sụp đổ thì Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên
CNXH, kiên trì đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc “đổi mới nhưng không đổi
màu”.
Lịch sử cách
mạng Việt Nam đã khẳng định một chân lý: Đi theo con đường cách mạng XHCN và đi
lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp
với khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trải qua gần 40 năm tiến hành đổi
mới, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được thành tựu rất to lớn, trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đánh
giá khái quát: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay... Tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng
ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại”. Trong những chặng đường tới, Đảng ta đã có dự báo
khoa học về 4 nguy cơ, những thách thức không nhỏ từ bên ngoài và ở trong nước đối
với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với phương châm vượt qua
thách thức, tận dụng những cơ hội, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
hơn, Đảng ta đặt ra mốc: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước
phát triển, theo định hướng XHCN” là hoàn toàn có cơ sở khoa học đúng đắn và có
tính khả thi.
Với trí tuệ,
khả năng và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, được sự ủng hộ của nhân dân thì việc kiên định lựa chọn con đường đi
lên CNXH cũng không ngoài mục đích nhân văn cao đẹp là tiếp nối truyền thống, xứng
đáng với các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH; đồng thời đáp ứng lòng mong đợi và phù hợp với khát vọng, mong
muốn của gần 100 triệu người dân Việt Nam./.
=TXD-H2=
0 nhận xét:
Đăng nhận xét