Đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo, tín
ngưỡng đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử nhân loại ở mọi quốc gia, qua nhiều
thể chế chính trị. Tuy thịnh suy mỗi thời một khác, nhưng vai trò và ảnh hưởng
của nó đối với đời sống xã hội không như nhau. Người Việt Nam, dù là có tôn
giáo hay không có tôn giáo, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, sống trong
nước hay định cư ở nước ngoài, trong sâu thẳm của tâm hồn họ vẫn ẩn chứa niềm
tự hào về nguồn gốc huyền thoại con Rồng, cháu Tiên của mình. Mọi người đều quý
trọng mảnh đất thiêng liêng hình chữ S, mà ở đấy mỗi tấc đất đều thấm máu và mồ
hôi của ông cha qua nhiều thế hệ dựng nước và giữ nước. Vì vậy, việc gắn đạo
với đời, tôn giáo với dân tộc để cho "nước vinh đạo sáng" luôn là tâm
nguyện của mọi người bao đời nay.
Trước thềm bầu cử
đại biểu Quốc hội XV và HĐND các cấp 2021-2026, trên các trang mạng xã hội có
nhiều bài viết của các thế lực thù địch, ráo riết thực hiện chiến lược "diễn
biến hòa bình". Trên lĩnh vực tôn giáo được cụ thể hóa thành nhiều nội
dung cụ thể, trong đó hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo gắn với vấn đề nhân
quyền và dân chủ được coi là trọng điểm, một khâu đột phá, một mũi tiến công
thường trực và xuyên suốt. Chúng cho rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội không tồn
tại lợi ích và tự do tôn giáo. Các thế lực thù địch gần đây đã đối lập giữa
người cộng sản với tín đồ các tôn giáo. Họ tung ra đủ những luận điệu, nào là
vô thần và hữu thần như nước với lửa; chủ nghĩa xã hội không tương dung với tôn
giáo; chủ nghĩa xã hội phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế; chủ nghĩa xã hội
không phù hợp với nền văn minh Ki-tô giáo. Họ còn gán cho những người cộng sản
đủ thứ xấu xa. Thậm chí, họ còn đồng nhất người cộng sản với quỷ dữ..., rằng:
cộng sản diệt công giáo.
Thực tiễn quá
trình thực hiện hai cuộc cách mạng: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, tự nó đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc trên. Từ trước đến nay
và mai sau, những người cộng sản chưa bao giờ có ý định phủ nhận sự tồn tại của
tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và cũng chưa khi nào có chủ trương chống tôn
giáo mà chỉ chống những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị phản động.
Ph. Ăng-ghen đã từng phê phán gay gắt những phần tử tả khuynh vô chính phủ khi
họ muốn ghi vào cương lĩnh của đảng công nhân việc công khai thừa nhận chủ
nghĩa vô thần theo cái nghĩa là tuyên chiến với tôn giáo. Năm 1874, ông đã phê
phán tuyên ngôn của phái Blăng-ki và cho rằng: tuyên chiến ầm ĩ của họ với tôn
giáo là dại dột; rằng: tuyên chiến như thế là một phương pháp tốt nhất làm kích
động thêm sự quan tâm của người ta đối với tôn giáo. Năm 1877, trong tác phẩm
"Chống Đuy-rinh", Ph. Ăng-ghen lại lên án tư tưởng cách mạng giả hiệu
của Đuy-rinh, khi ông ta chủ trương cấm tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.
V.I. Lê-nin cũng đã
từng tỏ thái độ không đồng tình đối với những phần tử tả khuynh vô chính phủ
muốn phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và những hành vi
thô bạo của họ. Ông cho rằng: Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu
tranh thực sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo một cảnh cực lạc
trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về
cảnh cực lạc trên thiên đường. Theo ông, điều mà người cộng sản cần và có trách
nhiệm là: Đoàn kết họ lại vì cuộc đấu tranh thực sự nhằm giành lấy một cuộc đời
tốt đẹp hơn trên trần thế.
Ở nước ta, ngay từ
năm 1945, chỉ sau một ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết.
Năm 1951, trước luận điệu xuyên tạc của kẻ địch về nguy cơ cộng sản tiêu diệt
tôn giáo, trong buổi kết thúc lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người khẳng
định: "Chúng tôi... xin nói rõ để tránh mọi sự hiểu lầm: ...về vấn đề tôn
giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
mọi người". Sau khi miền Bắc được giải phóng, một số bà con tín đồ các tôn
giáo còn băn khoăn về sinh hoạt tôn giáo trong chế độ mới, Hồ Chí Minh đã nêu
rõ: Đảng Cộng sản chẳng những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo;
Đảng Cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột người, vì thế đồng bào có đạo
rất an tâm. Ngày 10-05-1958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?, Hồ Chí Minh một lần nữa
nhắc lại thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo rằng: ở các nước xã hội
chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cũng vậy.
Năm 1990, Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo, xác định: tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc
xây dựng xã hội mới. Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 7, khóa IX (năm 2003)
khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc". Người cộng sản không chỉ thừa nhận về sự tồn tại của tôn giáo trong
chủ nghĩa xã hội, mà còn thấy sự tương đồng nhất định về lý tưởng tôn giáo với
lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tôn giáo với học
thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là hai hệ tư tưởng khác nhau. Chủ nghĩa duy
linh và chủ nghĩa duy vật là ngược nhau. Cộng sản vô thần, công giáo hữu thần,
nhưng cộng sản và công giáo vẫn có chỗ giống nhau, cả hai đều phản ánh khát
vọng về sự giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nô dịch và nghèo khổ.
Kế thừa tư tưởng
của các nhà sáng lập học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh rất chú ý khai thác
điểm tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, chính điều đó đã thu hút,
tập hợp quần chúng có tôn giáo cùng toàn dân tích cực không chỉ trong cách mạng
giải phóng dân tộc mà cả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khi nói với đồng
bào có đạo, còn ít hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, trong những ngày đầu xây dựng
xã hội mới, Hồ Chí Minh giải thích rất cụ thể, thiết thực và rõ ràng: Xã hội
ngày càng lớn, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ
nghĩa xã hội. Người luôn tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa có trong tín
ngưỡng, tôn giáo. Người cho rằng Phật Thích Ca, Chúa Giê-su và Đức Khổng Tử đều
là những vĩ nhân của lịch sử, là bậc thầy. Họ đã từng hy sinh, phấn đấu cho
hạnh phúc của con người, chống lại áp bức, bất công và luôn mơ ước về một xã
hội tốt đẹp. Dù tôn giáo là "hạnh phúc hư ảo của nhân dân", nhưng sự
hy sinh của các đấng bậc ấy cho ước mơ của con người là rất đáng trân trọng.
Người cho rằng: Nếu Đức Giê-su sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình
trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội
chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ loài người. Ý tưởng này cũng giống như đối với
Khổng Tử, khi Người viết: Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với
hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lê-nin.
Cả người cộng sản
và người có tôn giáo đều có ước mơ về một xã hội tốt đẹp và phấn đấu để đạt
được ước mơ đó, nhưng phương pháp để đạt mục đích ấy lại khác nhau. Những người
cộng sản tìm thấy sự giải phóng trước hết trong hiện thực vật chất, thực tế,
nhờ tinh thần con người, như V.I. Lê-nin từng nói. Họ đem hết sức lực, trí tuệ
để xây dựng "thiên đường" ngay trên cõi trần, còn chủ nghĩa cơ đốc
đem sự giải phóng đó đặt vào mai sau, đặt trong "đời sống" sau lúc
chết, đặt ở trên trời.
Như vậy, sự khác
biệt giữa lý tưởng tôn giáo và chủ nghĩa xã hội cơ bản nằm trong khuôn khổ của
thế giới quan cũng như phương pháp và lực lượng thực hiện sứ mệnh giải phóng
con người. Tôn giáo hứa hẹn xã hội hoàn thiện ở "thế giới bên kia",
trong khi những người cộng sản chủ trương thay đổi cái nhà nước ấy và xã hội hiện
tại ấy bằng một xã hội khác cao hơn, công bằng hơn, trong đó, chế độ người bóc
lột người sẽ bị thủ tiêu. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà người cộng sản phủ
nhận nhu cầu hướng tới "thiên đường" của quần chúng - chừng nào đồng
bào có đạo còn có nhu cầu ấy. Sự khác nhau về nhận thức không tất yếu dẫn đến
sự khác nhau về quan điểm chính trị. Nghĩa là, người có cũng như không có tín
ngưỡng, tôn giáo vẫn có thể cùng phấn đấu cho một mục tiêu chính trị nhất định.
Nhân dân ta trải
qua ba thập kỷ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với bao khó khăn,
gian khổ, mất mát, hy sinh; trong đó, có không ít tín đồ và chức sắc các tôn
giáo. Năm 1975, đánh dấu một trang sử mới của lịch sử dân tộc - nước nhà thống
nhất, giang sơn quy về một mối, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Hòa vào
niềm vui chung của cả dân tộc với sự kiện lịch sử trọng đại này, đồng bào các
tôn giáo cùng toàn dân đang nỗ lực thực hiện sự nghiệp xây dựng chế độ mới trên
phạm vi cả nước.
Hơn ba mươi năm
của sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đã thu được những thành công quan trọng trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, có lĩnh vực tôn giáo. Đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo được cải thiện, chức sắc và tín
đồ các tôn giáo an tâm phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chủ trương, chính
sách của Đảng, của Nhà nước và cùng toàn dân tích cực tham gia vào sự nghiệp
đổi mới đất nước.
Là người Việt Nam,
hẳn ai cũng đều mong muốn Tổ quốc yêu quý của chúng ta cường thịnh, non sông
đất nước ta tươi đẹp, xã tắc bình yên, con người hạnh phúc, làm rạng danh Việt
Nam trên trường quốc tế. Khát vọng ấy đã, đang và sẽ mãi mãi là mẫu số chung,
là sự tương đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Việt, để tăng cường
sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không tín
ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Muốn
vậy, một phần rất quan trọng là phải tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính
sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo; đồng
thời, tích cực đấu tranh, phòng ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch trên
lĩnh vực tôn giáo./.
Tia chớp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét