Tháng 12/1920, tại
Đại hội Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đã bỏ phiếu tán thành
tham gia Quốc tế III, một tổ chức do V.I.Lênin sáng lập năm 1919.
Quốc tế III đã
kế tục xứng đáng sự nghiệp của Quốc tế I và những giá trị, truyền thống tốt đẹp
của Quốc tế II. Trong gần một phần tư thế kỷ tồn tại, bằng những hoạt động sôi
nổi, phong phú và sự phấn đấu không ngừng nghỉ của những người cộng sản, Quốc tế
Cộng sản đã để lại những giá trị to lớn, không thể phủ nhận đối với phong trào
Cộng sản và công nhân quốc tế, đối với phong trào cách mạng thế giới cả về
chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức. V.I. Lênin chỉ rõ: “Ý nghĩa lịch sử
toàn thế giới của Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ nó đã bắt đầu thực hiện
khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của
chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm:
chuyên chính của giai cấp vô sản”.
Những giá trị
chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức mà Quốc tế Cộng sản tạo nên đã tác động
sâu sắc, ảnh hưởng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó không chỉ
đối với quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lựa chọn con
đường, mục tiêu của cách mạng; mà còn đối với cả quá trình xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện và củng cố sự lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn 1930 - 1945, giai đoạn nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên phá bỏ xiềng gông, làm nên thắng lợi vĩ đại
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay mình.
Một trăm bảy tư
năm qua kể từ khi Tuyên ngôn Cộng sản ra đời, sự công kích, hạ thấp vai trò và
phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin cả về lý luận và thực tiễn, cũng như các tổ chức
của những người Cộng sản là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của các thế lực chống
cộng. Đối với Quốc tế Cộng sản, chúng xuyên tạc và cho rằng, đây không phải là
tổ chức chân chính của những người Cộng sản và giai cấp công nhân, nên không có
vai trò quan trọng nào; họ còn lớn tiếng gán bừa rằng, vì đó là tổ chức của chủ
nghĩa Mác – Lênin, nên đã mắc nhiều sai lầm, ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào
Cộng sản và công nhân quốc tế, đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Họ rêu rao nói xằng, Quốc tế Cộng sản không có vai trò nào quan trọng, thậm chí
còn ảnh hưởng tiêu cực đối với cách mạng Việt Nam; rằng, những “sai lầm” về chiến
lược và sách lược của Quốc tế Cộng sản là nguyên nhân dẫn đến một số sai lầm của
Đảng ta trong hoạch định đường lối và chỉ đạo thực tiễn cách mạng. Luận điệu
xuyên tạc này là vô căn cứ, không đúng, cần kiên quyết bác bỏ.
Thực tiễn lịch
sử Việt Nam và sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản trong những năm 20, 30 của thế
kỷ XX cho thấy rõ ảnh hưởng sâu sắc và vai trò quan trọng của Quốc tế Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam. Trong những năm của thập kỷ cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, một loạt phong trào yêu nước của nhân dân ta đã nổi lên mạnh
mẽ, liên tục chống đế quốc và phong kiến, song đều không giành được thắng lợi
và lâm vào bế tắc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng không chỉ về
đường lối, mà là sự khủng hoảng toàn diện trên những vấn đề rất cơ bản: khủng
hoảng về hệ tư tưởng dẫn dắt, về “chủ nghĩa cần theo”; khủng hoảng về giai cấp
lãnh đạo và lực lượng cách mạng của dân tộc; khủng hoảng về con đường và mục
tiêu đi tới, phương hướng phát triển của lịch sử dân tộc.
Cả ba vấn đề khủng
hoảng này đều rất bức thiết, quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi hỏi đều phải được
giải quyết. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là câu trả lời, giải đáp cho
các vấn đề khủng hoảng đó. Xem xét sự tác động và ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam cần phải xem xét sự tác động và ảnh hưởng đó trên cả
ba vấn đề khủng hoảng của lịch sử Việt Nam trong mối quan hệ thống nhất.
Thứ nhất, Quốc
tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong giải quyết vấn đề khủng hoảng về hệ tư
tưởng, về “chủ nghĩa cần theo” của dân tộc ta. Kể từ khi thành lập năm 1919 đến
khi tuyên bố tự giải tán vào năm 1943, trong quá trình hoạt động và chỉ đạo
phong trào cách mạng thế giới, Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện và môi trường
rất thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã được truyền bá mạnh mẽ và sâu
rộng vào Việt Nam bằng chủ trương và nhiều hoạt động phong phú, đa dạng của Quốc
tế Cộng sản, cũng như hoạt động của những cán bộ của Quốc tế, trong đó có nhiều
cán bộ là người Việt Nam. Những tác phẩm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
như “Cộng sản sơ giải”, “Bệnh ấu trĩ tả khuynh”, “Hai sách lược của Đảng Công
nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”,… đã
vượt qua “hàng rào kiểm soát” của thực dân Pháp để vào Việt Nam là nhờ sự nỗ lực
và tạo điều kiện của Quốc tế Cộng sản.
Sự thâm nhập
sâu rộng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam đã trực tiếp đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quá trình
giác ngộ giai cấp và giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp
lao động Việt Nam. Điều đó, đã góp phần rất quan trọng giải quyết căn bản vấn đề
“chủ nghĩa cần theo” - chủ nghĩa Mác – Lênin - của lịch sử dân tộc, tạo nền tảng
xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, Quốc tế
Cộng sản đã định hướng đúng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở nước ta. Trong
thực tiễn, Quốc tế Cộng sản đã tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đào tạo cho cách mạng Việt Nam đội
ngũ cán bộ vững vàng, v.v. Đây là những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối
với cách mạng Việt Nam. Tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đã làm cho giai
cấp công nhân Việt Nam ngày càng giác ngộ, trưởng thành và bước lên vũ đài lịch
sử, chính thức trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc từ năm 1930. Việc Đảng
Bônsêvích Nga và Quốc tế III, tại Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935
công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản
và đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên chính thức (một trong hai ủy viên
là người các dân tộc thuộc địa) là sự khẳng định rõ ràng uy tín quốc tế và vai
trò của Đảng Cộng sản Đông Dương với tư cách là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng ở các nước Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Dưới tác động của
Quốc tế Cộng sản, các hình thức tổ chức lực lượng ở Việt Nam được tổ chức thích
hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng tổ chức lực lượng
sang thời kỳ Mặt trận dân chủ, sáng tạo hình thức tổ chức lực lượng mới ở Đông
Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương. Điều đó đánh dấu sự kết hợp chặt chẽ giữa
vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong điều kiện lịch sử mới của cách mạng Việt
Nam, thoát khỏi khuôn khổ mặt trận chống đế quốc thuần túy, giai cấp chống giai
cấp nói chung không còn phù hợp. Quốc tế Cộng sản còn tạo điều kiện thuận lợi
cho những người Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh
nghiệm của các đảng Cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước. Đặc biệt, đã
đào tạo cho Việt Nam đội ngũ cán bộ cách mạng cần thiết, trong đó có nhiều cán
bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính, xuất sắc, nắm giữ các trọng trách
cao trong Đảng và quốc tế. Nhiều chiến sĩ cộng sản, như Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các đồng chí: Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai,... đã
trưởng thành, trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua việc phân công, đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp
của Quốc tế III. Đội ngũ cán bộ của Đảng ta được đào tạo cơ bản, có hệ thống,
có bước trưởng thành vững chắc về tư tưởng lý luận; Đảng ta ngày càng được củng
cố về tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Thứ ba, Quốc tế
Cộng sản tạo tiền đề, điều kiện trong giải quyết vấn đề khủng hoảng về con đường
và mục tiêu, phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình tìm
đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn
cho nhân dân ta - con đường cách mạng vô sản - “không có con đường nào khác”,
thông qua đường lối và chương trình hành động của Quốc tế III, trực tiếp là những
tư tưởng của V.I. Lênin. Đặc biệt, tác phẩm “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc coi là “chiếc cẩm nang thần kỳ”, là
“con đường” giải phóng cho nhân dân ta; chấm dứt tình trạng bế tắc về đường lối
cứu nước ở Việt Nam. Quốc tế III không chỉ định hướng con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc cho nhân dân ta, mà còn có những chỉ đạo kịp thời và giúp đỡ Đảng
ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam sớm trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới là nhờ
có sự tác động, ảnh hưởng và đóng góp to lớn của Quốc tế III. Việc Quốc tế Cộng
sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông Dương, cũng như cách mạng
Việt Nam trên toàn thế giới, đã giúp cho các đảng Cộng sản và công nhân trên thế
giới, nhất là ở các nước thuộc địa có thể học tập từ kinh nghiệm của cách mạng
Việt Nam.
Ảnh hưởng và
vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam là sâu sắc và quan trọng.
Đó là lịch sử, là sự thật, không thể xuyên tạc, phủ nhận. Sự ảnh hưởng và vai
trò đó không chỉ đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với việc giải
quyết ba vấn đề khủng hoảng trên, mà còn cả trong quá trình Đảng thực hiện lãnh
đạo cách mạng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ,
nhất là trong thời kỳ 1930 - 1945. Có nghĩa là, cả ba vấn đề: đường lối, lực lượng
và hệ tư tưởng, với sự giúp đỡ và ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản vẫn tiếp tục
được củng cố, hoàn thiện sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm
1930. Những luận điệu xuyên tạc, phủ định vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với
cách mạng Việt Nam là vô căn cứ, phi lịch sử, nhất định bị phá sản./.
NMH-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét