"Con đường đi lên CNXH là bất định, không có thật"
là luận điệu mà một số thế lực đã và đang tuyên truyền. Tuy nhiên, từ lý luận
cho đến thực tiễn, thành tựu của đất nước ta trong suốt những năm qua cho thấy,
việc đi lên CNXH là tất yếu của loài người và là con đường hoàn toàn đúng đắn của
đất nước ta, dân tộc ta, là tương lai rộng mở.
Một trong những luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm tác động
mạnh mẽ vào nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và
nhân dân chính là luận điệu cho rằng: Con đường đi lên CNXH là bất định, không
có thật. Nhiều người nhìn vào điều kiện vật chất, trình độ phát triển của nước
tư bản phát triển để nhầm tưởng rằng: CNTB là chế độ xã hội ưu việt, là mục
tiêu vươn tới của nhân loại. Đồng thời ra sức chê bai, phủ nhận CNXH, từ đó cho
rằng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chỉ là bánh vẽ viển vông, thiếu thực tế.
Thực tế, nhiều nước tư bản đã phát triển ở trình độ cao và
đang tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn phiến diện một chiều về
kết quả của CNTB ở thời điểm hiện tại. Hãy quay lại lịch sử ra đời của CNTB,
ngay trong bước đi đầu tiên ở giai đoạn tích lũy nguyên thủy tư bản, giai cấp
tư sản đã in hằn vào lịch sử nhân loại những dòng đầy máu và nước mắt. Giai cấp
tư sản ở các nước tư bản phương Tây đã ra sức tước đoạt của cải, bóc lột sức
người, vơ vét tài nguyên của các nước thuộc địa và người lao động ở chính quốc
để phục vụ mục đích làm giàu vô hạn độ. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội tư
bản ngày càng mở rộng, lớn lên và không bao giờ có thể khỏa lấp. V.I.Lênin khẳng
định bản chất về chính trị của CNTB là thối nát và phản động; chủ nghĩa đế quốc
là bạn đường của chiến tranh; còn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ chiến tranh.
Rõ ràng đến nay, luận điểm đó không những còn nguyên giá trị mà còn khắc sâu
hơn bản chất của CNTB đương đại.
Hoàn toàn có cơ sở khoa học để khẳng định chắc chắn rằng:
Con đường đi lên CNXH trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng không hề viển
vông, bất định như CNTB và các thế lực thù địch xuyên tạc. Ngược lại, nó được
minh chứng thuyết phục, sinh động cả về lý luận và thực tiễn.
Trước hết, CNXH là sự vận động tất yếu của lịch sử. Bằng hai
phát kiến vĩ đại là học thuyết giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
C.Mác đã luận giải thuyết phục sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Dựa
trên các quy luật vận động nội tại của xã hội, nhất là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và quy luật mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, C.Mác đã đi đến khẳng định: “Sự phát
triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Thứ hai, mục tiêu của CNXH là không xa vời mà rất cụ thể. Đó
là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ sự phân chia giai cấp, xây dựng một
xã hội bình đẳng, tự do, hạnh phúc. Ở CNXH có sự khác biệt rất căn bản so với tất
cả phương thức sản xuất trước đó chính là nằm ở mục tiêu hay con đường đi tới.
Trong xã hội trước đây chỉ là sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương
thức sản xuất khác thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ là
thay thế giai cấp thống trị này bằng giai cấp thống trị khác, quần chúng cần
lao vẫn là giai cấp bị trị, vẫn chịu sự bóc lột bằng cách này hoặc cách khác.
CNXH là một xã hội được xây dựng nhằm hướng tới mục tiêu giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người.
Thứ ba, CNXH là chế độ xã hội đã được hiện thực hóa trên thực
tế, khác biệt về chất so với các chế độ xã hội trước đó.
Từ học thuyết của Chủ nghĩa Mác về CNXH khoa học, thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga đã biến CNXH trở thành hiện thực với đầy đủ hình
hài của một xã hội tương lai: Giải phóng giai cấp vô sản thoát khỏi ách áp bức,
bóc lột của giai cấp tư sản; giải phóng giai cấp nông dân khỏi gông cùm của địa
chủ phong kiến... Những thành tựu trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, ở
Trung Quốc cho thấy con đường đi lên CNXH hoàn toàn là hiện thực, hướng tới xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn xã hội cũ, chứ không phải là điều không tưởng.
Thứ tư, CNXH đang được xây dựng toàn diện cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Đây là minh chứng sinh động, cụ thể về một
mô hình CNXH được xác định qua 8 đặc trưng cơ bản về mục tiêu; về trình độ lực
lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; nền văn hóa; về con người, về nhà nước pháp
quyền XHCN... 8 đặc trưng này là sự khái quát hóa mô hình của CNXH, nó không chỉ
dừng lại trong chiến lược, trong nghị quyết mà được hiện thực hóa trong đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Biểu hiện rất cụ thể của dân chủ XHCN là
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đó là
minh chứng rõ ràng, thuyết phục về sự hiện thực hóa nội hàm của con đường đi
lên CNXH. Bởi xét cho cùng, giá trị của cách mạng XHCN đều kết tinh ở chỗ người
dân làm chủ cái gì, thụ hưởng được cái gì. Và cũng chính điều này khẳng định sự
khác biệt về bản chất của chế độ XHCN so với chế độ TBCN.
Rõ ràng những giá trị tốt đẹp chúng ta đang xây dựng không hề
xa vời, viển vông mà ngược lại đó là những giá trị đích thực của CNXH, chúng ta
hoàn toàn có thể xác lập, xây dựng và hiện thực hóa. Điều đó cũng khẳng định rằng
con đường đi lên CNXH không phải là bất định như nhiều kẻ xấu rêu rao mà là con
đường hiện thực, có đích đến cụ thể mà chúng ta có quyền lựa chọn, có quyền nỗ
lực, kiên định, kiên trì thực hiện và có quyền tin tưởng rằng CNXH sẽ được xây
dựng thành công trên đất nước Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét