Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản
Việt Nam họp từ ngày 25/01/2012 đến 01/02/2021
tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã nhất trí thông qua nhiều văn kiện quan trọng:
Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030; Báo
cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016
- 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025;
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng
Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội XIII; Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân, thể hiện sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân”; là sự tổng
kết sâu sắc 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Cương
lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020. Ở bài viết này, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến sự tiếp thu có chọn lọc
các giá trị chung của nhân loại vào các văn kiện của Đại hội. Cụ thể như:
1. Về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân
loại, được phát triển trong chủ nghĩa tư bản. Từ Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa Đại hội XII, Văn kiện
Đại hội XIII nêu: Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập
thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến
khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ vị trí, vai
trò của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị
trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng,
quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo
chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác
xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp
sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao
năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết
giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở
tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn
kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân
hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển
các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người
lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận
quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu
tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Văn kiện Đại hội XIII xác định mối quan
hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội: Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ.
Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh
doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường
thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị
trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng
kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị
trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động
lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết
hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức
xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề
phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên
trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các
thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước
và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các
cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
2. Về nhà nước pháp quyền
Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, Đảng ta
đã chính thức sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nhĩa và được tiếp
tục được phát triển qua các kỳ đại hội. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị
xác định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, hiện
đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững.
3. Về dân chủ
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Từ khi ra đời
đến nay, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn bản chất, vị trí,
vai trò của dân chủ và phát huy dân chủ. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị
xác định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ: Tiếp tục cụ thể hoá, hoàn
thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến
pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện
đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở
cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp uỷ, tổ
chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ,
công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo
đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của
nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ
đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế;
quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn
định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ
của nhân dân.
4. Về hạnh phúc
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Quốc hiệu của nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao giá trị hạnh
phúc. Các văn kiện Đại hội XIII đề cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Thế giới hiện nay rất coi trọng chỉ
số hạnh phúc của người dân để đánh giá về sự tiến bộ, ưu việt của các quốc gia.
Đây cũng là một điểm nhấn trong các văn kiện tại Đại hội XIII.
Nhận thức đúng đắn những vấn đề trên là cơ sở để
xây dựng niềm tin vững chắc và sự thống nhất cao từ nhận thức đến hành động, để
“Ý đảng, lòng dân” được ngày càng cũng cố, qua đó góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
Hải Xồm-H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét