Nhân kỷ niệm 132 năm (19/5/1890 - 19/5/2022) ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi xin giới thiệu tới các đồng chí và các bạn về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành,
trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh
ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 02/9/1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra
trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông
dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày. Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất
Thành nhận thẻ nhân viên lên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin với cái tên là Văn
Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con tàu rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn, nay là TP Hồ
Chí Minh) đến Pháp.
Từ năm 1912 -
1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều nước ở châu Á, châu
Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Hồ
Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc
thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức
được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận
trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm
đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm
1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều và
phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Hồ Chí
Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do cho
nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng
của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa, tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng
Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản),
trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu
nước trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Năm 1921,
cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia
sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Tháng 4/1922, Hội xuất bản báo
“Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc
đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm
1925. Đây là một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, góp
phần thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Tháng 6/1923,
Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm việc tại Quốc tế Cộng sản. Tháng
10/1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu
vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được
cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Tiếp đó tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần
thứ V, Đại hội Quốc tế Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại
các đại hội, Nguyễn Ái Quốc kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của
V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản
tới phong trào giải phóng dân tộc.
Tháng
11/1924, với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại
Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ
Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên.
Năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở lớp huấn
luyện đào tạo cán bộ cách mạng, ra tuần báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu
tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại
các lớp huấn luyện được tập hợp in thành sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện
lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Tháng 5/1927,
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi Béclin (Đức), đi
Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến
tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.
Từ tháng
7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều
yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tháng 3-1929,
Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc
Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định
lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng
Cộng sản Ở Việt Nam.
Tại Đại hội đầu
biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3-1929 trong đồn điền Bô ren (Sơn Tây) đã
nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN đã hết vai trò
lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ,
dẫn đầu đi dự Đại hội I của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao
cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ “đấu
tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai hội I Hội
VNCMTN”. 1 Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc
Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản.
Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.
Sau khi về tới
Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích
lý do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã
chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.
Đêm
17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố
Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã
thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan
ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất
của Đảng : “Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh
chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng
bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác
ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản”.
Cùng với công
tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ
tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu
rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết
định thành lập An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8-1929(7), xuất bản báo ĐỎ làm
cơ quan ngôn luận của mình.
Cùng với quá
trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đởi của hai tổ chức cộng sản, khuynh
hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng.
Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9-1929, ra
“Tuyên đạt” tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ
cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng “liên hợp thành một tổ chức
cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất”. Sự ra đời
của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã
chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam./.
CĐT-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét