Chắc
hẳn các bạn đã nghe nhắc nhiều về cụm từ "cờ ba que,xỏ lá"... vậy tại
sao lại gọi như thế? Và nó có nguồn gốc từ đâu? Bài viết hôm nay xin gửi đến
các bạn sẽ làm rõ điều đó!
Trong
thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những “trò chơi có thưởng”.
Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc
vòng nhỏ ở cuống. Người chơi cầm cái que nhỏ xỏ vào ba vòng này. Mỗi người chỉ
được xỏ một lần. Người nào xỏ vào được một lúc cả ba lá và nhấc được chúng lên
thì được lĩnh thưởng. Ai xỏ trật, tức xỏ không vào lá nào hoặc chỉ vào một
trong ba lá sẽ mất số tiền đặt cược.
Cũng
liên quan tới trò chơi này, có người kể lại cách thức chơi của bọn chủ trò có
khác chút ít. Chúng thường dùng ba que nhỏ, trong đó chỉ có một que xỏ vào chiếc
lá rồi chìa cho mọi người xem. Chúng tuyên bố rằng, nếu ai rút trúng que có chiếc
lá khi chúng nắm tay lại thì người đó trúng thưởng. Ngược lại, người chơi sẽ mất
số tiền đặt cược trước. Dù chơi theo cách thức nào đi nữa, thì bọn chủ trò vẫn
có nhiều mưu mẹo, khiến cho người chơi bao giờ cũng thua cuộc. Vì thế, người ta
mới gọi bọn chủ trò là bọn “ba que xỏ lá” với hàm ý là bọn bịp bợm, lừa đảo, dối
trá. Từ cách thức chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng hình thức ban đầu của “ba
que xỏ lá” là “xỏ lá ba que”.
Sở
dĩ có sự thay đổi này là do việc đọc chệch cho thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ.
Thành
ngữ “ba que xỏ lá” dần dần được mở rộng phạm vi sử dụng. Nó được dùng để chỉ tất
cả những hạng người lừa lọc, bịp bợm, đểu cáng.
Cờ
ba que vốn là cờ ba sọc mà lược sử có thể tạm kể như sau. Sau khi Đế quốc Nhật
đảo chính thực dân Pháp, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới
sự bảo hộ của Nhật.
Ngày
11/3/1945, ông ta tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Quý Mùi 1883 và Hòa ước Giáp Thân
1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 17/4/1945, đứng đầu là Trần Trọng Kim,
Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc Việt Nam và ngày 8/5/1945, quốc kỳ được chọn gọi
là cờ quẻ Ly. Cờ này nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một
trong 8 quẻ của bát quái, gồm một vạch liền, một vạch đứt rồi lại một vạch liền;
bề rộng của các vạch này chỉ bằng khoảng 1/15 bề rộng chung của lá cờ. Cờ quẻ
Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực tế Nhật vẫn cai
trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam kỳ mới được trao trả vào
ngày 14/8/1945. Nhưng 16 ngày sau đó (chiều ngày 30/8/1945) thì Bảo Đại tuyên bố
thoái vị nên trên thực tế, Nam kỳ chưa bao giờ dùng cờ quẻ Ly.
Sau
khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được
Anh cai quản. Anh sau đó đã giao lại cho Pháp tiếp tục quản lý. Chính quyền
Pháp đã khuyến khích phong trào Nam kỳ tự trị. Ngày 26/3/1946, Nam kỳ Cộng hòa
quốc (République de Cochinchine) thành lập. Từ ngày 1/6, “quốc gia” này dùng quốc
kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở giữa, gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen
nhau. Hình dáng lá cờ biểu tượng cho ba con sông Đồng Nai, Tiền Giang và Hậu
Giang trên đất Nam Kỳ. Lá cờ này tồn tại được 2 năm cho đến khi chính quyền Nam
kỳ quốc giải thể và sáp nhập vào Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại ngày 2/6/1948.
Theo
tướng Đỗ Mậu, cựu Phó thủ tướng ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa, lá cờ vàng ba sọc
do linh mục Trần Hữu Thanh vẽ ra. Nhưng có thông tin khác cho rằng, do họa sĩ
Lê Văn Đệ vẽ và đã trình cho Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở Hongkong năm
1948. Nó có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa,
tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát Quái. Có thông tin hợp lý cho rằng, ba sọc đỏ
trên lá cờ là tượng trưng cho Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ
(Cochinchine). Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung
của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ.
Ngày
2/6/1948, chính phủ bù nhìn lâm thời của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chính thức
dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam. Lá quốc kỳ vàng ba
sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ của chính quyền Quốc gia Việt Nam
(1949-1955), rồi sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng
hòa (1955-1975).
Trở
lên là lược sử lá cờ ba que, lấy từ Wikipedia, qua những biến tấu của nó (chủ yếu
là về màu sắc) nhưng dù có biến như thế nào thì cũng chỉ là hiện thân ô nhục của
thân phận thuộc địa, khá lắm thì cũng chỉ là con rối do ngoại bang trực tiếp giật
dây mà thôi. Cờ ba que – đúng ra là cờ ba sọc – thực chất chỉ là cờ bù nhìn, hết
bù nhìn của Nhật đến bù nhìn của Pháp, hết bù nhìn của Pháp đến bù nhìn của Hoa
Kỳ cho đến lúc Nguyễn Văn Thiệu bỏ cờ chạy thoát thân. Giuse Phạm Hữu Tạo đã viết
về thân phận của cờ ba que như sau:
Sau
khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ, mặt tiền của hội nghị do một tướng Pháp và tướng
Văn Tiến Dũng đồng chủ tọa, cột cờ trước phòng hội nghị chỉ có cờ đỏ Sao Vàng
(cờ Việt Nam) và cờ Tam Tài (cờ Pháp). Cái “cờ ba que” cờ vàng ba sọc đỏ của ngụy
quyền bù nhìn Bảo Đại chỉ được treo dưới “đít” lá cờ Pháp (cờ ba que được phục
sinh kéo dài 21 năm, bởi quân xâm lược đế quốc Mỹ, hà hơi cho chế độ Diệm - Thiệu
và bị xé bỏ vất vào thùng rác của Liên Hiệp Quốc, sau ngày Đại Thắng Mùa Xuân
1975.!
Nếu
muốn dùng từ ngữ một cách thực sự chính xác, ta phải nói rằng, cờ của bù nhìn Bảo
Đại cũng như của chế độ Sài Gòn sau 1954 là “cờ ba sọc”. Sọc là gì? “Từ điển tiếng
Việt” (2007) của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên giảng là: “Vệt màu
chạy dọc hoặc ngang trên mặt vải hay trên mặt một số vật”. Còn que là gì? Cũng
quyển từ điển này giảng: “Vật cứng, dài và nhỏ, có thể cầm được dễ dàng để dùng
vào việc gì”. Cứ như trên thì hiển nhiên là, ở đây, sọc thích hợp hơn que, nếu
không muốn nói rằng que là một từ dùng có phần khiên cưỡng. Nhưng đằng sau sự
khiên cưỡng này lại chính là ý chí và ý thức của người dân yêu nước, khinh bỉ
và ghét bỏ cái lá cờ không cần biết do ai thiết kế, nhưng chắc chắn chỉ là một
mớ vải do thực dân, đế quốc “sổ” ra từ lòng chế độ cai trị của nó mà thôi. Người
dân đã quyết gọi nó là “cờ ba que” thì nó phải “gắn chết cái tên” cờ ba que.
3que xỏ lá hay ba càng (3///, đu càng)./.
NĐH-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét