Trong suốt cuộc
đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua bao khó khăn, nhiều
khi nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng. Nhiều người Việt Nam đều biết rõ những
ngày tháng bị bắt oan, bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Bác đã viết
hơn 100 bài thơ chữ Hán ghi lại trong cuốn sổ tay những sự việc, suy nghĩ, tình
cảm của mình trong năm tháng ở trong lao tù được chính Bác đặt tên là “Ngục trung
nhật ký” (Nhật ký trong tù), trong đó, bài “Thế lộ nan” (Đường đời hiểm trở) có
những câu:
“Ta là
đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” tại nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong
trắng,
Lại bị tình
nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn”.
Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 7/1957
Xử thế trước đây đã khó, nay càng khó khăn hơn là lời khuyên mọi người, và trước hết là lời “tự bạch”, tự khuyên bảo chính mình phải vượt lên mọi hoàn cảnh để chiến thắng. Tư tưởng, tâm thế, phẩm cách này và rất nhiều yếu tố khác đã hun đúc nên vĩ nhân Hồ Chí Minh, giúp Bác tự tin, sáng suốt, bình tĩnh xử trí khôn khéo trong mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước.
Hầu như tất cả
cán bộ ngoại giao lão thành và đương thời ở nước ta và nhiều chính khách, nhà
ngoại giao, học giả trên thế giới đều khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà
ngoại giao xuất sắc của Việt Nam. Trong cuốn sách Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho rằng, tư tưởng và
phong cách ngoại giao của Hồ Chí Minh gồm: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; ứng
xử linh hoạt; nói giản dị, dễ cảm hóa, thuyết phục và viết ngắn gọn, hàm xúc, dễ
hiểu. PGS,TS Vũ Dương Huân, Tổng lãnh sự Việt Nam tại Viễn Đông, Nga cho rằng,
trong hoạt động ngoại giao, đặc điểm lớn của Hồ Chí Minh là “kiên định các vấn
đề chiến lược, các vấn đề nguyên tắc, lợi ích sống còn của dân tộc, song vô
cùng mềm dẻo các vấn đề về sách lược”.
Trong Hồi
ký của ông Nguyễn Đức Thụy, nguyên trợ lý ngoại giao của Hồ Chí Minh, phụ
trách công tác đối ngoại với chính quyền Tưởng Giới Thạch và Hoa kiều, ghi rõ:
“Lần đầu tiên Bác đến thăm Lư Hán tại Phủ Chủ tịch hiện nay, họ Lư cho một viên
quan tùy tùng ra đón, để Bác ngồi chờ ở phòng khách rồi Lư Hán mới ra chào hỏi.
Hành xử như vậy nhưng sau cuộc trò chuyện, Lư Hán đưa Bác ra tận cổng, tiễn Bác
lên xe, rồi mới vào. Những lần sau Bác đến, Lư Hán đều ra đón tại cổng, tỏ ra hết
sức tôn trọng Bác”. Tiêu Văn, một tên tướng có bề ngoài nho nhã, tỏ ra rất biết
điều, khi ông ta cùng vợ sang Việt Nam, Bác Hồ đã cho mở tiệc chiêu đãi cả hai
vợ chồng. Các cuộc gặp này (với Lư Hán và Tiêu Văn) đã tạo được chuyển biến tốt
để thực hiện chủ trương hòa với Tưởng ở miền Bắc để đánh Pháp ở miền Nam. Đây
là thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới
được thành lập, còn non yếu, lại phải đối phó với các lực lượng ngoại bang Tưởng,
Anh, Pháp,… dưới danh nghĩa quân đồng minh vào Việt Nam để giải giáp quân đội
Nhật, nhưng thực chất là muốn lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trong
tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Bác Hồ đã ứng xử ngoại giao khôn
khéo, quyết đoán, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong mọi tình huống. Những ví dụ
trên là một trong rất nhiều ví dụ thể hiện sự xử thế mềm dẻo, khôn khéo của Bác
Hồ trong đối ngoại.
Trong những
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, Hồ Chí Minh luôn có cách nói, cách viết
khác nhau cho phù hợp, nhưng lúc nào cũng giữ vững sự thống nhất trong tư tưởng
ngoại giao của người đại diện anh minh cho dân tộc Việt Nam độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và đang vươn tới tự do, hạnh phúc.
Khi khẳng định
về quyền dân tộc cơ bản, bao gồm: độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những nội dung tiến bộ
mang tính pháp lý và đạo lý có tính phổ quát của nhân loại trong các bản Tuyên
ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Pháp, trong đó có nội
dung về những quyền cơ bản của con người, đó là: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trên cơ
sở khẳng định những quyền cơ bản của con người, Hồ Chí Minh đã kết luận và khẳng
định những quyền dân tộc cơ bản của tất cả các dân tộc trên thế giới đó là: “Tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”.
Khi viết, nói
chuyện hoặc trao đổi với người đối thoại trong, ngoài nước về quan hệ quốc tế,
Bác Hồ có nhiều cách viết, cách trả lời khác nhau, nhưng đều biểu hiện một tư
tưởng nhất quán trong đối ngoại.
Trong “Bài
nói tại Hội những người Ấn nghiên cứu các vấn đề quốc tế”, ngày 07/2/1958, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: “Về quan hệ quốc tế, chúng tôi luôn luôn trung thành với
chính sách hòa bình và hợp tác giữa các nước trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống
hòa bình”.
Trong “Thư gửi
các lãnh tụ và nhân dân các nước” ngày 13/01/1947, Người viết: “Việt Nam chỉ muốn
hòa bình và độc lập, để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới, trước
là với dân tộc anh em Á Đông và dân tộc Pháp”; “Việt Nam là một bộ phận trong nền
hòa bình chung toàn thế giới. Thực dân Pháp gây nên chiến tranh ở Việt Nam, tức
là phá hoại thế giới hòa bình”.
Trong bài nói
chuyện “Trả lời nhà báo Mỹ S. Êli Mâysi, tháng 9/1947, khi được hỏi về chính
sách đối ngoại của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: (Việt Nam muốn) “làm bạn
với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Hay khi “Trả lời
phỏng vấn của phóng viên báo Praxa Thipatay (Thái Lan), Người đã khẳng
định: “Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng
với Việt Nam”. Khi nói chuyện với cán bộ ngoại giao, Người căn dặn: “Các chú phải
làm sao để mỗi người bạn quốc tế đến nước ta là gần và yêu Việt Nam thêm một
chút”; “Ta phải làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn
hết”.
Một vài dẫn
chứng trên cũng tương đối đủ để khẳng định rằng, nghệ thuật ngoại giao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn bảo đảm nguyên tắc “dĩ bất biến”, nhưng luôn “ứng vạn biến”,
thể hiện phong cách ứng xử nhạy bén, sáng tạo, nên đã mang lại hiệu quả rất
cao.
Việc học tập
Bác, theo gương Bác trong công tác đối ngoại luôn luôn là việc làm hữu ích, nhất
là trong thời kỳ Việt Nam hội nhập khu vực và toàn cầu hóa thì việc rèn luyện,
học tập tư tưởng, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh trở thành vấn đề cấp thiết
cho các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và tham gia công tác đối ngoại./.
CĐT-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét