Thực tiễn các cuộc “cách mạng
màu” ở một số nước không gian hậu Xô viết như: Gruzia (2003), Ucraina (2004),
Kưrgưstan (2005)...; “Cách mạng hoa nhài” (“Mùa xuân Ả Rập”) ở một số nước Bắc
Phi, Trung Đông cuối năm 2010, đầu năm 2011; “Cách mạng ô dù” ở Hồng Kông năm
2014; các cuộc biểu tình phản đối Dự luật Dẫn độ ở Hồng Kông, Trung Quốc năm
2019… cho thấy vai trò đặc biệt to lớn của “bất bạo động”.
Được sự hậu thuẫn của các thế lực
thù địch bên ngoài, các lực lượng đối lập, phần tử chống đối chính phủ tại các
quốc gia này triệt để lợi dụng sự khủng hoảng, tình trạng mất ổn định chính trị,
xã hội trong nước, thông qua hô hào sử dụng “bất bạo động” đã kích động, lôi
kéo được hàng vạn người dân xuống đường biểu tình, bạo loạn, lật đổ chính phủ cầm
quyền tại các nước này.
“Bất bạo động” được hình thành
và phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỷ XX. Trên thế giới, Mahatma
Gandhi được xem là người đầu tiên áp dụng phương thức đấu tranh này để giải
phóng dân tộc Ấn Độ khỏi sự đô hộ của Anh. Đấu tranh “bất bạo động” cũng được
biết đến từ cuộc nổi dậy của sắc dân da đen ở Mỹ đòi quyền bình đẳng, chống lại
nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc, được lãnh đạo bởi mục sư Martin Luther King.
Ở nước ta, thuật ngữ “bất bạo động”
được xuất hiện vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ XX. Những tư tưởng ban đầu của
phương pháp đấu tranh “bất bạo động” đã được nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu
Trinh tiến hành để đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược với phong trào Duy
Tân. Phương thức hoạt động của phong trào là “bất bạo động”, công khai hoạt động
nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lĩnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối
học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp,
chấn hưng công nghiệp, bỏ mê tín dị đoan… Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ
là “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”.
Tư tưởng ban đầu là như vậy, tuy
nhiên gần đây, đặc biệt là sau khi hàng loạt các cuộc “cách mạng sắc màu” nổ ra
tại một số nước không gian hậu Xô viết, với kịch bản được các thế lực thù địch
áp dụng nhằm hậu thuẫn cho các lực lượng đối lập lật đổ chính quyền đương nhiệm
tại các quốc gia này thì phương thức “bất bạo động” đã và đang được các thế lực
thù địch, phản động triệt để sử dụng để chống phá Việt Nam với mục đích cuối
cùng là lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước
ta.
Vậy, “bất bạo động” là gì? Có thể
hiểu, “bất bạo động” là thuật ngữ dùng để chỉ một phương thức hoạt động chống đối
của các thế lực thù địch, phản động không sử dụng vũ khí, súng đạn mà sử dụng
các thủ đoạn “bất hợp tác”, “bất phục tùng”, “bất tuân dân sự” kết hợp với sử dụng
áp lực của quần chúng để gây áp lực với Đảng, Chính phủ, từ đó làm suy yếu, tiến
tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước đương nhiệm
ở các quốc gia.
Có thể nhận diện phương thức “bất
bạo động” với những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, “bất bạo động” là phương
thức hoạt động không sử dụng vũ khí, súng, đạn mà sử dụng áp lực của quần
chúng, từng bước làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền
và chính phủ, nhà nước đương nhiệm ở các quốc gia. Khác với phương thức bạo lực,
vũ trang, “bất bạo động” là phương thức hoạt động chống đối không sử dụng vũ
trang mà chủ yếu tập trung vào việc sử dụng sức mạnh của quần chúng để chống đối
chính quyền, trên cơ sở hô hào, kích động quần chúng tẩy chay, bất hợp tác với
chính quyền; kích động công nhân đình công, bãi công; lôi kéo, lừa bịp, kích động
các giai tầng xã hội xuống đường tuần hành, biểu tình, gây áp lực với Đảng, Nhà
nước, đòi thực hiện các yêu sách như: Đòi Đảng cầm quyền từ bỏ vai trò lãnh đạo;
đòi cải cách chính trị; phi chính trị hóa lực lượng vũ trang… từ đó làm suy yếu,
tiến tới vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, chính quyền đương nhiệm,
lập nên chính quyền mới thân với các thế lực thù địch nước ngoài.
Hai là, tẩy chay, bất hợp tác với
chính quyền, đưa chính quyền vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” là những nội
dung cơ bản của phương thức “bất bạo động”. Thực tiễn các cuộc “cách mạng màu”
diễn ra tại một số nước trên thế giới thời gian qua cho thấy, những nội dung
chính được các lực lượng đối lập, chống đối sử dụng trong đấu tranh “bất bạo động”
là: 1) Bất tuân dân sự: Tức là người tham gia phương thức này có thể từ chối thực
hiện những việc mà họ vẫn thường làm, hoặc bắt buộc phải làm theo yêu cầu của
luật pháp (tẩy chay bầu cử, biểu tình, đình công, bãi thị, bãi khóa…). 2) Hành
động một cách có chủ đích: Tức là người tham gia có thể thực hiện những việc mà
họ thường không làm hoặc không được trông đợi sẽ làm, hoặc bị cấm thực hiện (tập
hợp lực lượng, rải truyền đơn, kích động quần chúng xuống đường, chiếm trụ sở,
bắt giữ cán bộ; tạo sự kiện, lấy cớ cho các tổ chức quốc tế, các nước phương
Tây can thiệp...). 3) Thuyết phục và thương lượng: Đưa ra các điều kiện phù hợp
với tình hình, từ thấp đến cao, đẩy chính quyền vào thế buộc phải dùng vũ lực,
gây đổ máu, tạo cớ bên ngoài can thiệp buộc chính quyền phải nhượng bộ.
Nói cách khác, tẩy chay, bất hợp
tác với chính quyền được thực hiện trong phương thức “bất bạo động” chủ yếu là
tẩy chay, bất hợp tác về kinh tế (không tuân theo các quy định, luật lệ, pháp
luật của nhà nước về kinh tế, công nhân đình công, doanh nghiệp dừng sản xuất,
bãi thị đồng loạt, rút tiền khỏi ngân hàng, từ chối trả các lệ phí, từ chối nhận
tiền của nhà nước…); bất hợp tác về chính trị (công khai từ chối ủng hộ nhà nước;
viết và phát biểu kêu gọi chống đối; tẩy chay bầu cử; ngồi ăn vạ; bất hợp tác về
tư pháp, phản ứng; cản trở các hệ thống thông tin và tin tức…); bất hợp tác xã
hội (tẩy chay giao tiếp; sinh viên biểu tình, bất phục tùng dân sự, rút lui khỏi
các định chế xã hội; ở nhà, tạo khu an toàn, tiêu thổ tập thể...)
Ba là, đình công, biểu tình, tuần
hành chống đối chính quyền là hình thức chủ yếu, đặc trưng chính của “bất bạo động”.
Mục tiêu chính của các thế lực thù địch, phản động trong thực hiện phương thức
“bất bạo động” là bằng những “chiến thuật” hòa bình trong đấu tranh chính trị để
lật đổ chính quyền. Do đó, đình công, biểu tình, tuần hành là hình thức được
chúng xác định mang lại hiệu quả cao nhất, ít thiệt hại nhất. Đồng thời, sử dụng
các hình thức này, trong trường hợp chính quyền sử dụng vũ lực để đàn áp thì đó
sẽ là điều kiện thuận lợi, là “cái cớ” để các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng
can thiệp, gây sức ép, thậm chí sử dụng sức mạnh quân sự để tấn công.
Bốn là, “bất bạo động” đến một mức
độ nhất định có thể chuyển thành “bạo động” khi có điều kiện, thời cơ. Về hình
thức, “bất bạo động” được thể hiện thông qua các biện pháp “ôn hòa”, “dân sự”.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, không phải bất cứ lúc nào, trong trường hợp nào “bất
bạo động” cũng đều là ôn hòa, phi bạo lực. Khi “bất bạo động” đến một mức độ nhất
định có thể chuyển thành “bạo động”. Nói cách khác, ranh giới giữa “bất bạo động”
và “bạo động” là khá mong manh, có thể chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng.
Ở Việt Nam, thời gian gần đây được
sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch nước ngoài, các tổ chức phản động lưu
vong, số đối tượng chống đối cực đoan trong nước đang ra sức hô hào, tuyên truyền
rộng rãi về phương thức “bất bạo động” trên các trang mạng xã hội; mở các lớp
huấn luyện, đào tạo về “bất bạo động” cho số đối tượng chống đối, phản động;
triệt để lợi dụng các vụ việc, sự kiện chính trị, xã hội phức tạp, nhạy cảm để
lôi kéo, kích động, thu hút quần chúng tham gia vào các hoạt động trái pháp luật…
Các cuộc biểu tình phản đối Công
ty Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm môi trường xảy ra tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình năm 2016, 2017; các cuộc biểu tình phản đối Luật An ninh mạng và dự
thảo Luật Đặc khu tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh…
năm 2018… là những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự mang bóng dáng của “bất
bạo động”.
Có thể thấy rằng, “bất bạo động”
là một phương thức hoạt động với những thủ đoạn “mềm dẻo” không bộc lộ trực tiếp
và lộ liễu tính thách thức về chính trị và sự đối kháng với chính quyền. Điều
này không chỉ giúp các đối tượng tránh được sự trấn áp của chính quyền mà còn
gây ra nhiều khó khăn đối với công tác phát hiện, đấu tranh của lực lượng chức
năng.
Nguy hiểm hơn nữa là nó có khả
năng gây ra mơ hồ, ngộ nhận trong một bộ phận quần chúng và sự “ủng hộ” trong
dư luận quốc tế và trong nước, dễ lừa bịp, lôi kéo sự tham gia của các tầng lớp
xã hội, đặc biệt là đối với thanh niên, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, thậm
chí kể cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Vì vậy, việc nhận diện bản
chất của “bất bạo động” có ý nghĩa hết sức quan trọng…
TMN-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét