Trải qua 93 năm chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao sóng gió, thác ghềnh đến bến bờ thắng lợi đã chứng minh một sự thật không thể chối cãi rằng: không một tổ chức nào đủ khả năng lãnh đạo đất nước, ngoài đảng cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đứng lên khai tử chế độ thực dân, đế quốc, làm nên những cuộc chiến vệ quốc vĩ đại nhất trong thế kỷ 20, đập tan âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đánh tan Fulro và bè lũ Việt Tân do Hoàng Cơ Minh cầm đầu và các mưu đồ khủng bố, kích động bạo loạn; xây dựng một Việt Nam hòa bình, ổn định có cơ đồ, tiềm năng, vị thế và uy tín như hôm nay.
Nhìn lại suốt quá trình trong lịch
sử của cách mạng Việt Nam có thể thấy, cuối những năm 80, đầu thập niên 90 của
thế kỷ trước, Liên Xô - hòn đá tảng và là “anh cả” của CNXH đã sụp đổ; kéo theo
đó là các nước ở Đông Âu cũng vì thế mà sụp đổ theo. Nhiều người cho rằng, Liên
Xô và các nước theo chế độ XHCN trên toàn thế giới sụp đổ là thất bại của học
thuyết Mác - Lê Nin, họ đồn đoán về sự thất bại toàn diện trên phạm vi toàn thế
giới của chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng tất cả đã lầm! Việt Nam nhanh chóng nhận
ra những sai lầm khuyết điểm mà đảng cộng sản Liên Xô mắc phải, để từ đó có những
quyết sách đúng đắn, kịp thời; đưa cả dân tộc tiến lên. Thực tế cho thấy, việc
Liên Xô và các nước theo con đường XHCN tan rã là do nhiều nguyên nhân, tuy
nhiên nguyên nhân chính vẫn là các vấn đề nội tại; chính đảng viên của họ đã
tiêu diệt đảng của họ. Đúng như lãnh tụ V.I.Lênin từng nói: “Không có kẻ thù
nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại
trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa”. Đảng
Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả:
Năm 1917, 35 vạn đảng viên đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống
trị của Sa hoàng, cùng nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước để
bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến
thắng phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo công cuộc
xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường. Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên
Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà chính
là do những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng.
Phi chính trị hóa quân đội, truyền thông, báo chí và cả xét lại lịch sử. Từ năm
1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại
Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của
Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người dân ảo
tưởng vào phương Tây và như thế “cả đàn sói đã chồm lên cắn vào lịch sử/ cào
chiến công, xé xác những anh hùng”. Hàng loạt tướng lĩnh và đảng viên lão thành
đều bị cho nghỉ hưu để nhường cho “lớp trẻ cấp tiến”, kinh tế chậm đổi mới, các
vấn đề nội tại phát sinh cấp số nhân và ngày càng gay gắt…Điều gì đến đã phải đến,
công lao mà Lê Nin và các thế hệ đảng viên đảng cộng sản Lên Xô trong phút chóc
đã chìm xuống biển sâu! Đó là nỗi đau đoạn trường của những người cộng sản trên
thế giới và là bài học máu xương cho chúng ta.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng,
Đảng cộng sản Việt Nam không hề hoảng loạn hay hoang mang, giao động; vẫn trung
thành với Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một mặt sáng tạo, đổi
mới phù hợp với tình hình Việt Nam, một mặt mở rộng quan hệ quốc tế; chủ động đối
thoại với Mỹ, Trung để bình thường hóa quan hệ. Những năm cuối thập niên 80, đầu
90 của thế kỷ XX, Việt Nam đối diện với muôn trùng gian khó, tưởng chừng không
thể gượng dậy được. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chưa lâu, lại phải
đánh Pôn Pốt và quân bành trướng Bắc kinh, kéo dài đến cuối những năm 80. Đất
nước kiệt quệ về kinh tế, bị tàn phá nặng nề; bị cấm vận kéo dài. Sau ngày Liên
Xô sụp đổ, chúng ta đã khó lại càng khó hơn. Yêu cầu cấp bách là phải đổi mới,
nói như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là “những việc cần làm ngay”. Ta dần dân
tháo được những khó khăn, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991 và
Hoa Kỳ là 1995, cùng năm 1995, ta trở thành thành viên Asean, tổ chức ban đầu lập
ra là để chống Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, ta quan hệ trên bình
diện rộng, vừa làm bạn được với cả Mỹ - Trung, vừa làm bạn được với Hàn Quốc –
Triều Tiên…đó là sự sáng suốt trong đường lối ngoại giao của đảng; tạo dựng môi
trường hòa bình, thu hút đầu tư để phát triển đất nước, vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ 1995 đến nay, chúng ta mới được
yên để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Từ
chỗ bị cô lập, đến nay ta đã thiết lập mối quan hệ với gần 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Từ chỗ đói ăn trước đổi mới mà trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình; nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Dân lấy ăn làm trời; nghĩa là họ chỉ
cần biết tự do, ấm no, hạnh phúc và phẩm giá là tiêu chí hàng đầu và chính đảng
Cộng sản Việt Nam đã đem lại cho nhân dân Việt Nam điều đó.
Nhìn lại lịch sử của cách mạng Việt
Nam gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể khẳng định rằng:
sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng
lợi. Mặc dù Liên Xô và các nước theo CNXH sụp đổ nhưng Đảng ta vẫn vững vàng;
chế độ ta vẫn chiếm trọn niềm tin yêu và cả trái tim của nhân dân Việt Nam đời
đời văn hiến. Điiều đó chứng minh rằng: Liên Xô sụp đổ là do tự chính tay họ đã
tạo ra chứ không phải là thất bại của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin; sai lầm khuyết điểm
không thể vãn hồi đó chính là bài học xương máu để Đảng ta lấy làm gương tự sửa
đổi, tự chấn chỉnh mình. Trong không khí hân hoan chào mừng kỷ niệm 93 năm ngày
thành lập đảng cộng sản Việt Nam (03/2/1930-03/2/2021) và thành công rực rỡ của
Đại hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng; nhân dân Việt Nam tin tưởng sâu sắc vào
sự lãnh đạo của Đảng sẽ đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu,
như lúc tâm nguyện sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
NXT-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét