Chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác
và Ph.Ăngghen sáng lập vào nửa sau thế kỷ XIX. Sau khi Mác và Ăngghen mất,
Lênin là người kế tục sự nghiệp vĩ đại do Mác và Ăngghen để lại, từ cuối thế kỷ
XIX đến những năm hai mươi thế kỷ XX. Là một thể thống nhất giữa lý luận khoa học,
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với những nguyên tắc lãnh đạo chính trị và
thực tiễn đấu tranh cách mạng, sự thống nhất một cách hữu cơ của chủ nghĩa Mác
- Lênin thể hiện ở các bộ phận cấu thành của nó là triết học, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chủ nghĩa xã hội khoa học được
hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa rộng: Chủ nghĩa xã hội khoa là chỉ toàn bộ chủ nghĩa
Mác - Lênin như một hệ thống lớn, chỉnh thể các quan điểm - lý luận và phương
pháp về sự phát triển của thế giới, về bản chất và mục đích chân chính của lịch
sử, về con đường giải phóng xã hội loài người, đưa con người và loài người tới
tự do và hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Về điều này,
V.I Lênin đã đánh giá khái quát bộ “Tư bản” - tác phẩm chủ yếu và cơ bản trình
bày chủ nghĩa xã hội khoa học… những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai1; rằng
chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác, hoặc chủ nghĩa Mác chính là chủ
nghĩa xã hội khoa học. Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong
ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác -
Lênin. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã viết ba phần: “triết học”,
“kinh tế chính trị” và “chủ nghĩa xã hội khoa học”. Khi viết tác phẩm “Ba nguồn
gốc và ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác”, V.I.Lênin đã khẳng định: “Nó là người
thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi
thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
Pháp”. Chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách là một khoa học đã nghiên cứu và
khái quát thành lý luận những điều kiện cho sự giải phóng giai cấp vô sản và quần
chúng lao động ra khỏi ách thống trị tư bản chủ nghĩa, đi tới xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản bằng cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản văn minh.
Có thể khẳng định rằng, quá
trình xây dựng và phát triển học thuyết của mình, trong tư duy các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành ba bộ phận để nghiên cứu: Triết học (chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), Kinh tế chính trị học
và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Ba bộ phận này xuất hiện, phát triển gắn bó với
nhau, bổ sung cho nhau, mỗi bộ phận có vị trí riêng. Tính lôgíc, biện chứng của
chủ nghĩa xã hội khoa học trong hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện cụ thể
như sau:
Trong mối liên hệ với triết học
Mác- Lênin
Triết học Mác - Lênin là chủ
nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai
cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại. Với phát kiến thứ nhất là chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra việc sản xuất kinh tế là cơ sở để xem xét sự
thay đổi các chế độ xã hội, từ đó khẳng định sự phát triển của xã hội loài người
là quá trình lịch sử tự nhiên; sự thay đổi các hình thái kinh tế- xã hội đã diễn
ra trong lịch sử là do sự phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau.
Có thể khái quát về các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử theo quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen là: Do lực lượng sản xuất phát triển qua các thời kỳ,
trong lịch sử xã hội, loài người đã và sẽ diễn ra 5 hình thái kinh tế - xã hội:
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ; hình thái kinh tế - xã hội chiếm
hữu nô lệ; hình thái kinh tế - xã hội phong kiến; hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội khoa học, dựa
vào lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử rút ra kết luận:
cũng như các hình thái kinh tế - xã hội trước nó, hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa chỉ là một trong những nấc thang của sự phát triển trong lịch sử
xã hội loài người. Nó có quá trình phát sinh, phát triển, tiêu vong, trước sau
nó sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chính nhờ đó, Mác và Ăngghen đã luận chứng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản “không phải là một trạng thái cần sáng tạo,
không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều
kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”1. Đánh
giá về vai trò của triết học đối với chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin viết:
“Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường
phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp
bị áp bức, sống lay lắt từ trước tới nay”2.
Trong mối liên hệ với kinh tế
chính trị Mác - Lênin
Trên cơ sở quan điểm duy vật lịch
sử khi cho rằng, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng, là yếu tố suy cho cùng,
quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại;
chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc thượng tầng chính trị được xây dựng
lên, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đi sâu nghiên cứu sự vận động của xã hội tư bản,
làm rõ một trong những bản chất của giai cấp tư sản trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Đây chính là động
lực để chủ nghĩa tư bản tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế. Sự ra đời của
cách mạng công nghiệp đã làm xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản hai nhân tố
cực kỳ quan trọng: 1) Lực lượng sản xuất mới (đại công nghiệp); 2) Lực lượng xã
hội mới (giai cấp công nhân hiện đại). Nhờ có hai nhân tố này mà giai cấp tư sản,
chủ nghĩa tư bản đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự phát triển xã hội;
đồng thời, nó cũng làm xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản,
đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa với với tính chất chật
hẹp của chế độ chiếm hữu tư nhân và mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp
công nhân. Hai mâu thuẫn này, theo Mác và Ăngghen ngày càng gay gắt trong lòng
chủ nghĩa tư bản mà bản thân nó không thể giải quyết một cách triệt để.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin đã
luận giải làm rõ: Xét về mặt kinh tế thì
chỉ có thể giải quyết triệt để mâu thuẫn này khi có cuộc cách mạng làm thay đổi
quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Về mặt xã hội, lực lượng có sứ mệnh
thực hiện quá trình cách mạng đó là giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại
công nghiệp, bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối kháng với
giai cấp tư sản, đại diện cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiến bộ
của thời đại mới.
Trên cơ sở đó, Mác và Ăngghen chỉ
rõ “hai tất yếu” trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là: chủ nghĩa
xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản và “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”1. Các ông khẳng định, chủ
nghĩa tư bản, giai cấp tư sản càng phát triển, càng tạo ra những lực lượng, những
“vũ khí” phủ định nó; loài người sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và sứ mệnh
này thuộc về giai cấp tiên tiến nhất - giai cấp công nhân.
Với phát kiến thứ hai - học thuyết
giá trị thặng dư, bản chất bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp tư sản đã được
bóc trần và địa vị thực sự của giai cấp công nhân đã được luận giải một cách
khoa học. V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải
thích được địa vị thực sự của giai cấp công nhân trong toàn bộ chế độ tư bản chủ
nghĩa”2.
Với phát kiến thứ ba - sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp công nhân, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là thành
quả lý luận nhất quán về logic với Triết học, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, vừa
bổ sung, vừa hoàn chỉnh và làm sâu sắc và cân đối học thuyết Mác- Lênin.
Dựa trên phương pháp triết học
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên những cơ sở lý luận
khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ kinh tế… chủ nghĩa xã hội khoa học không
những chỉ nhằm nhận thức thế giới một cách đúng đắn mà còn trực tiếp đề cập đến
nhiều các vấn đề trong quá trình cải tạo thế giới theo những quy luật khách
quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là khoa học về những quy luật
và tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình chuyển biến từ xã hội tư bản
chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội,
được xem là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin; là hệ thống
lý luận chính trị- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin, trực tiếp làm rõ mục tiêu
cuối cùng và con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người, đồng thời luận
giải một cách khoa học về lực lượng chủ đạo của quá trình đó là giai cấp công
nhân có sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Mối quan hệ logic, biện chứng giữa
ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin có thể khái quát như sau: Nếu
triết học và kinh tế chính trị luận chứng tính tất yếu, những nguyên nhân sâu
xa, khách quan về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, thì việc chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội phải được thực hiện như thế nào, đặc biệt là
do giai cấp nào đảm nhiệm vai trò chủ đạo - trực tiếp giải quyết vấn đề đó… là
nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học được
hiểu theo nghĩa hẹp là hệ thống lý luận chính trị - xã hội của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đánh giá vai trò quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin chỉ
rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch
sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”1.
Cũng như các bộ phận khác của chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học là sự thống nhất giữa khoa học và
cách mạng. Song ở chủ nghĩa xã hội khoa học, sự thống nhất ấy đòi hỏi phải được
thực hiện trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân. Do đó, chủ nghĩa xã
hội khoa học càng đòi hỏi sự thống nhất chặt chẽ giữa khoa học và cách mạng, giữa
lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa học và tính giai cấp. Mặt khác, để nhận biết
đầy đủ giá trị và những giá trị bền vững của chủ nghĩa xã hội khoa học, chúng
ta cần phải nghiên cứu nó một cách tổng hợp trên cả bình diện rộng và hẹp của
chủ nghĩa xã hội khoa học trong toàn bộ di sản lý luận kinh điển mácxít./.
PVĐ-H4
1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, CTQGST,
H.2005, t.1, tr.226
1 C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, CTQGST, H.2005, t.3, tr.51
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, CTQGST, H.2005, t.23, tr.58
1 C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, CTQGST, H.2005, t.4, tr.413
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, CTQGST,
H.2005, t.23, tr.58
1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb, CTQGST,
H.2005, t.21, tr32
0 nhận xét:
Đăng nhận xét