Thế giới ngày nay tôn vinh Người là Anh hùng Giải phóng dân
tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Tất cả những giá trị cao đẹp ấy hội tụ trong
chân dung Hồ Chí Minh: một vị Lãnh tụ thiên tài và một người Thầy vĩ đại của
dân tộc Việt Nam; một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và
thân thiết của phong trào Cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả
loài người tiến bộ.
Từ khi Đồng minh những người cộng sản ra đời với bản Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản do Mác và Ăngghen soạn thảo (1848) đến nay, phong trào cộng
sản quốc tế đã có lịch sử gần 170 năm chiến đấu vẻ vang và chiến thắng vĩ đại.
Từ chỗ bị các thế lực thù địch sợ hãi xem như một “bóng ma ám ảnh châu Âu”, các
lực lượng cộng sản đã ngày càng hiện hữu trong vai trò, vị trí lãnh đạo nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức tiến hành hàng loạt cuộc cách mạng làm
rung chuyển thế giới, kết thúc thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra một
thời đại mới trên thế giới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội; thời đại mà hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trở
thành những mục tiêu cao cả nhất. Đi đầu trong đội quân tiên phong ấy là C.
Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và tiếp bước họ là những lãnh tụ kiệt xuất, những
chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng, phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế, trong đó, ngời sáng tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng mà ngay từ
rất sớm đã được hàng triệu người trên thế giới biết đến. Người được ngưỡng mộ
là “nhà mácxít-lêninít khiêm tốn nhất và triệt để nhất của thời đại chúng ta”
(Phiđen Caxtrô); là “biểu tượng của sự sáng suốt cộng sản chủ nghĩa ở châu Á”
(R.Arixmênđi); là “nhà lãnh đạo vĩ đại và kiên định” (Inđira Ganđi); là tấm
gương lớn nhất về “sự toàn vẹn, lòng nhân ái và tính khiêm tốn” (Xanvađo
Agienđê)... Nhân dân Liên Xô trước kia quen gọi Hồ Chí Minh là “một chiến sĩ
cách mạng lỗi lạc”. Thế giới ngày nay tôn vinh Người là Anh hùng Giải phóng dân
tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Tất cả những giá trị cao đẹp ấy hội tụ trong
chân dung Hồ Chí Minh: một vị lãnh tụ thiên tài và một người Thầy vĩ đại của
dân tộc Việt Nam; một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và
thân thiết của phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả
loài người tiến bộ, như Trung ương Đảng ta đã đánh giá trong giờ phút đau thương
phải vĩnh biệt Người cách đây hơn 45 năm.
Tư cách chiến sĩ lỗi lạc của Hồ Chí Minh được cấu thành bởi
sự nghiệp cách mạng vĩ đại, những đóng góp to lớn, chủ nghĩa quốc tế vô sản và
những phẩm giá cao đẹp của chính Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự nghiệp cách mạng thật sự vĩ đại,
đó là đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa đầu tiên ở châu Á, góp phần to lớn vào phong trào cách mạng,
phong trào cộng sản quốc tế.
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước nhà bị thực dân đô
hộ, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm nung nấu hoài bão giải phóng dân tộc.
Đồng thời, người thanh niên ấy cũng sớm nhận ra những hạn chế lịch sử của hàng
loạt phong trào đấu tranh yêu nước ngày ấy và quyết tâm tìm con đường cứu dân,
cứu nước tiên tiến, phù hợp. Hoà mình vào phong trào công nhân, phong trào xã
hội ở Pháp và nhiều quốc gia phương Tây khác, Nguyễn Ái Quốc đã đến được với
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã tìm ra con đường cách mạng duy nhất đúng
đắn để giải phóng dân tộc mình, đó là con đường cách mạng vô sản. Mùa Xuân năm
1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng tiền
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Hội nghị đã đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt tuyên bố tiến hành tư
sản dân quyền cách mạng, thổ địa cách mạng để tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Dưới sự tổ chức và rèn luyện trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chỉ 15 năm sau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn
dân tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực
dân - phong kiến, thành lập nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở đầu
quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Bàng hoàng và hoảng
sợ trước ngọn đuốc giải phóng dân tộc trong thời đại mới đã được thắp sáng tại
Việt Nam, thực dân Pháp và các thế lực phản động quốc tế phiêu lưu xâm lược
Đông Dương một lần nữa. Sau nhiều cố gắng thương lượng bất thành, từ tháng 12 năm
1946, lãnh tụ Hồ Chí Minh một lần nữa lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
Việt Nam tiến hành trường kỳ kháng chiến và 9 năm sau kết thúc thắng lợi bằng
chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Tiếp nối Điện
Biên Phủ - Việt Nam là hàng chuỗi phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp nổ ra
ở không gian Á, Phi và Mỹ La tinh rộng lớn trong suốt các thập kỷ 50, 60 và 70
của thế kỷ XX. Hệ thống thuộc địa thế giới đã từng được chủ nghĩa thực dân đế
quốc xây dựng ròng rã trong 500 năm (từ năm 1492) đã nhanh chóng sụp đổ hoàn
toàn chỉ trong vòng chưa đầy 50 năm sau mốc son Việt Nam mang đậm dấu ấn Hồ Chí
Minh.
Sau thất bại của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ thế chân, nhảy
vào miền Nam Việt Nam, âm mưu chiếm đóng, chia cắt lâu dài đất nước ta nhằm dập
tắt phong trào giải phóng dân tộc và chống phá chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành đồng thời hai cuộc
cách mạng: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Ngay trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn ngày càng
được củng cố, miền Bắc hoàn thành nghĩa vụ cao cả là hậu phương lớn cho miền
Nam đánh Mỹ. Quân và dân miền Nam đã lần lượt làm thất bại mọi chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ và tiến tới Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Lá cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội - lá cờ bách chiến, bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân giương cao, biến Việt Nam thành lương
tri và khí phách của cả thờì đại. Chiến thắng năm 1975 của Việt Nam là chiến
thắng của thời đại Hồ Chí Minh, chiến thắng của dân tộc chống đế quốc, của chủ
nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản, của văn minh chống lại bạo tàn, góp phần
to lớn vào sự nghiệp bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên
toàn thế giới.
Thật khó trình bày tiến
trình vận động và phát triển của thế giới trong suốt thế kỷ XX nếu không nhấn
mạnh những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, trong đó có vai trò và đóng
góp không ai có thể thay thế của người cầm lái thiên tài Hồ Chí Minh!
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về sự kiên định,
trung thành với mục tiêu lý tưởng cộng sản; đồng thời, đã vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện Việt Nam, góp phần xứng
đáng vào tăng cường sức sống cho hệ tư tưởng cộng sản trong thời đại mới. Chính
vì vậy, Người không chỉ được kính trọng, ngưỡng mộ, mà còn là một tấm gương cần
noi theo, một sự chỉ dẫn không thể thiếu đối với nhân dân Việt Nam và đông đảo
lực lượng cách mạng, tiến bộ toàn thế giới trước kia, hiện tại và tương lai.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
cộng sản, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người trong một sự nghiệp cách mạng.
Lập trường cộng sản của Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở của một nhận thức
đúng đắn, một ý chí sắt son với quốc gia dân tộc, một trình độ giác ngộ giai
cấp sâu sắc qua thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội phong phú của bản thân
Người. Bởi vậy, ngay trong hoàn cảnh hoạt động bí mật hiểm nghèo, trong chốn
lao tù khắc nghiệt, hay trong những thời điểm bị chính các đồng chí cộng sản
hiểu lầm, đánh giá sai…, Người vẫn luôn luôn tự tin, kiên định với mục tiêu, lý
tưởng cộng sản.
Điều hết sức đặc sắc ở Hồ Chí Minh là Người đã duy trì sự
kiên định, trung thành bằng cách vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận
cộng sản một cách kịp thời, đúng đắn và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam cũng như với bối cảnh mới của thời đại. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi; về vai trò, vị trí của cách mạng vô sản
ở thuộc địa đối với cách mạng thế giới nói chung và cách mạng vô sản ở chính
quốc nói riêng; về khả năng, tiềm năng cách mạng của các lực lượng dân tộc chủ
nghĩa ở Đông Dương; về giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; về quy luật
ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt Nam; về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một xã hội thuộc địa - phong kiến; về xây dựng nền văn hóa và
con người mới xã hội chủ nghĩa; về khối đại đoàn kết toàn dân tộc như động lực
của toàn bộ sự nghiệp cách mạng; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân với sức
mạnh tổng hợp, chiến tranh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân; về xây dựng
Nhà nước, xây dựng Đảng như tổ chức của những công bộc, những người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân; về nền đối ngoại hòa bình, độc lập tự chủ, hợp tác và
hội nhập quốc tế… là những cống hiến vô giá đối với chủ nghĩa Mác - Lênin,
phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới.
Hệ thống lý luận do Mác, Ăngghen và Lênin xây dựng cách đây
hàng thế kỷ vẫn có ý nghĩa thời đại sâu sắc, một phần rất lớn là nhờ được nhiều
lãnh tụ cách mạng, trong đó có Hồ Chí Minh của Việt Nam, bổ sung, phát triển
thông qua tổng kết thực tiễn sinh động của quốc gia và thế giới đương thời. Đối
với những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn
có giá trị soi sáng con đường cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước kia và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới vừa qua cũng
như những đóng góp của công cuộc đổi mới đối với quá trình phục hồi, phát triển
của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, trên ý nghĩa hiện thực của nó, cũng chính
là thành công và đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một chiến sĩ trung thành với chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có đóng góp to lớn cho tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân tất cả
các nước, giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa vô sản và các dân tộc bị áp bức
và giữa các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới với nhau. Chủ nghĩa quốc tế
của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú: Đoàn kết với nhân dân lao động các nước
vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; đoàn
kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn
phương vô sản đều là anh em”; đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công
lý và tiến bộ xã hội; đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ
nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại
mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc đi
tìm con đường giải phóng dân tộc. Từ năm 1912 đến năm 1917, Người đến nhiều
nước châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hòa mình với nhân dân lao động.
Thông cảm sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc
địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ, Người sớm nhận thức được cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới và đã hoạt động tích cực nhằm đoàn kết nhân
dân các dân tộc giành tự do, độc lập.
Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động
trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới
Hội nghị Vécxây bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là
quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa. Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
tham dự đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia
nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa
Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4 năm
1922, Hội ra báo "Le Paria" (Người cùng khổ) nhằm đoàn kết, tổ chức
và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài
báo của Người đã được đưa vào tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp",
xuất bản năm 1925, một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực
dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm
việc trong Quốc tế Cộng sản. Tháng 10 năm 1923, tại Hội nghị Quốc tế nông dân
lần thứ I, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân như đại biểu
duy nhất của nông dân thuộc địa. Người tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Đại
hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại
các diễn đàn này, Người kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng
sản tới phong trào giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản của Hồ Chí Minh chứa đựng sự nhất
quán giữa nhận thức và hành động; vừa có nội dung yêu nước sâu sắc và lập
trường giai cấp sáng tỏ; kết hợp đúng đắn lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích
chung của cách mạng thế giới; vừa có lý, vừa có tình…Chính vì vậy, tư tưởng của
Người tiếp tục là nguồn ánh sáng soi đường cho chúng ta trong tiến trình đoàn
kết, hợp tác và hội nhập quốc tế ngày nay.
Hồ Chí Minh là một nhân cách Cộng sản mẫu mực, suốt đời
phấn đấu, hy sinh cho độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân; sống
cuộc đời giản dị, khiêm tốn, ham học hỏi, nói đi đôi với làm; thực hành nghiêm
túc các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng; gắn bó máu thịt với nhân dân, thường
xuyên nhấn mạnh quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Trọn
đời, Người chỉ có một mục đích duy nhất là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc
và hạnh phúc của nhân dân, "chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t4, tr.161).
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, trong đó chứa
đựng tinh hoa của đạo đức nhân loại, đạo đức dân tộc và đạo đức cộng sản mà
Mác, Ăngghen, Lênin đã đặt nền móng. Nội dung hàng đầu của đạo đức Hồ Chí Minh
là trung với nước, hiếu với dân, là tình yêu thương con người. Chữ “trung”, chữ
“hiếu” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao cộng sản, đó là
trung thành với lợi ích quốc gia, với độc lập, tự do, sẵn sàng hy sinh hạnh
phúc cá nhân vì nghĩa cả, nghiệp lớn, vì hạnh phúc của nhân dân nước mình và
quần chúng cần lao trên thế giới. Chính vì vậy, đạo đức Hồ Chí Minh là biểu
tượng của chủ nghĩa nhân văn cao cả nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đạo đức là cái gốc của người
cách mạng. Người chỉ rõ: Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nước
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t5, tr.252). Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, dốc trọn tâm can, nhiệt huyết cho dân, cho nước, lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ, không tơ hào lợi lộc, vinh hoa phú quý là nội dung rất quan trọng
trong đạo đức Hồ Chí Minh, được vị lãnh tụ đề cập ngay từ đầu trong tác phẩm
"Đường cách mạng" và nhấn mạnh trong Di chúc để lại cho đồng bào,
đồng chí trước lúc đi xa.
Trong mọi hoàn cảnh, dù ở thủ đô hay trong rừng núi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giản dị, thanh cao. Hình ảnh vị lãnh tụ với cháo bẹ,
rau măng, lán rạ… trong núi rừng kháng chiến; hay đôi dép cao su, bộ ka ki
khiêm tốn, ngôi nhà sàn bé nhỏ, đơn sơ… trên cương vị nguyên thủ quốc gia, mà
khi đi vào cõi vĩnh hằng không để lại một chút tài sản riêng tư, đã tạc dấu ấn
của một nhân cách cộng sản đích thực vào tinh thần thời đại ngày nay.
Nhân cách cộng sản Hồ Chí Minh còn tỏa sáng một cách mẫu
mực từ việc làm, cách ứng xử và cuộc sống hàng ngày của Người. Khi kêu gọi toàn
dân xây dựng hũ gạo kháng chiến, vị Chủ tịch nước Hồ Chí Minh cũng mỗi bữa bớt
lại một nắm gạo và 10 ngày nhịn ăn một bữa. Khi kêu gọi toàn dân rèn luyện thân
thể, Người cũng “tự tôi, ngày nào tôi cũng tập”. Để thực hiện nghiêm túc chủ
trương tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn mang theo cơm nắm, muối vừng
trong mỗi chuyến công tác,v.v… Suốt đời, Người thực hiện nói ít, làm nhiều, nói
đi đôi với làm, cán bộ làm gương cho quần chúng noi theo, xây đi đôi với chống,
lấy xây làm chính và thực hành tu dưỡng đạo đức thường xuyên như “ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Nhân cách cộng sản Hồ Chí Minh cũng tỏa sáng một cách độc
đáo từ quan niệm Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Ngay sau khi thành lập nước,
trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, kiên trì
đấu tranh phòng chống các căn bệnh, nguy cơ quan liêu, xa rời cuộc sống, xa rời
quần chúng nhân dân, đặc quyền đặc lợi, chủ nghĩa cá nhân… Theo Hồ Chí Minh,
sức hấp dẫn và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội chưa hẳn là đời sống vật chất cao,
mà trước hết ở các giá trị nhân văn, đạo đức của nó, được thể hiện trong từng
cán bộ cách mạng và đảng viên. Người nhấn mạnh: “Phong trào cộng sản quốc tế
trở thành lực lượng quyết định vận mệnh loài người chẳng những là do chiến lược
và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức
cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch” (Hồ Chí Minh:
Lênin và Cách mạng tháng Mười. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.160).
Thế giới ngày nay có biết bao đổi thay sâu rộng, khó lường.
Sự nghiệp của những người cộng sản đã phải nếm trải không ít đổ vỡ, mất mát
nhưng loài người không bao giờ quên, không bao giờ phủ nhận những đóng góp lịch
sử vĩ đại của cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
trong suốt thế kỷ XX. Loài người cũng mãi mãi tự hào về những chiến sĩ lỗi lạc,
những lãnh tụ kiệt xuất đã từng xuất hiện và trưởng thành từ phong trào cộng
sản, phong trào cách mạng sôi động ấy, trong đó có Hồ Chí Minh, người con ưu tú
nhất của dân tộc Việt Nam.
Ở những thập niên đầu thế kỷ XXI hiện nay, nhân dân lao
động toàn thế giới đang nỗ lực và sáng tạo đấu tranh vì một thế giới tốt đẹp
hơn - một thế giới của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;
một thế giới khác với thế giới tư bản chủ nghĩa, không còn áp bức, bóc lột, bất
công. Tuy nội dung, hình thức đấu tranh có nhiều điểm khác trước, nhưng mục
tiêu đấu tranh vẫn thống nhất với thời kỳ của các thế hệ tiền bối cách mạng.
Bởi vậy, lá cờ của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và tấm gương của các chiến sĩ
cộng sản lỗi lạc như Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị dẫn đường./.
ĐTT-KBS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét