Trong
tác phẩm Đường Cách mệnh, viết
từ năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu tác phẩm bằng cách nêu rõ: Tư cách một
người cách mệnh. Một tác phẩm lý luận, viết trên lập trường, quan điểm mác-xít,
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đặt nền móng tư tưởng lý luận,
chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng vào năm 1930, nhưng lại nhấn mạnh
trước hết vào đạo đức, vào “tư cách một người cách mệnh”; điều đó có ý nghĩa
đặc biệt sâu sắc, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và những trù tính chiến lược
của Người. Cách mạng là một sự nghiệp vĩ đại, phá cái cũ lỗi thời, lạc hậu đổi
ra cái mới tiến bộ, phát triển. Người cách mạng, đảng cách mạng, muốn thực hiện
được sự nghiệp vĩ đại đó, trước hết
phải có đạo đức.
Thực
tiễn và kinh nghiệm lịch sử của các đảng cộng sản đã từng lãnh đạo và cầm
quyền, chỉ vì suy thoái về đạo đức, dẫn đến tự đánh mất vai trò lãnh đạo, địa
vị cầm quyền của mình, tan rã và sụp đổ, như điều đã xảy ra ở Liên Xô và các nước
Đông Âu vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, đã xác nhận tính đúng đắn và
sáng suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người
nêu lên từ rất sớm, ngay từ khi Đảng còn chưa ra đời những điều hệ trọng, như
phải “Giữ chủ nghĩa cho vững”, đồng thời “Ít lòng tham muốn về vật chất”. Người
nêu rõ trong “tư cách một người cách mệnh” ba mối quan hệ, với 23 tiêu chí, yêu
cầu cần phải thực hiện. Đó là những chuẩn mực về đạo đức mà mỗi cá nhân phải
thể hiện trong thái độ, trong ứng xử, trong việc làm và hành vi, với tự mình,
với người khác, với công việc, mà tổ chức, đoàn thể giao cho. Trong 23 tiêu
chí, yêu cầu nêu ra, Người dành tới 14 yêu cầu đối với bản thân mỗi người, mà
Người gọi là “tự mình phải”, 5 yêu cầu đối với người khác và 4 yêu cầu đối với
công việc.
Trong
14 yêu cầu “tự mình phải”, nổi bật yêu cầu nói đi đôi với làm, “nói
thì phải làm”. Đủ thấy, theo Người, việc tự mình rèn luyện đạo đức quan trọng
biết nhường nào. Tự mình có đạo đức, thì mới có thể biểu hiện thành ý thức và
tình cảm đạo đức mà đối xử với người, với đồng chí, bạn bè, với dân chúng, đồng
bào, nêu gương về tính trung thực, khiêm tốn, vị tha, khoan dung, nhân ái.
Người đòi hỏi, với mình phải nghiêm, với người phải rộng lòng khoan thứ; phải
tận tụy, trách nhiệm trong công việc, cương trực, thẳng thắn, tôn trọng tổ
chức, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, không hiếu danh, không kiêu ngạo. Sau này,
khi cách mạng đã thành công, Đảng đã cầm quyền, Người vẫn luôn nhấn mạnh, cán
bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng đạo đức, liên hệ mật thiết với dân chúng, phải
dân chủ, chứ không biến thành “quan chủ”, phải là đầy tớ trung thành, công bộc
tận tụy của nhân dân, chứ không lên mặt “quan cách mạng”, dẫn tới chỗ xa dân,
quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, cửa quyền. Phải sống và làm việc sao cho nhân
dân tin tưởng, nhân dân yêu mến, nếu có lỗi với nhân dân phải thật thà xin lỗi và có quyết tâm sửa lỗi. Dân vận là việc
rất quan trọng, có nhân dân giúp sức, thì việc khó mấy cũng làm được, không có
nhân dân giúp đỡ, không được nhân dân ủng hộ, thì dù có tài giỏi mấy, cũng không
làm nên việc gì. Bởi vậy, trong sáu điều dạy cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân
tháng 3-1948, Người đặc biệt nhấn mạnh, tư cách. Với chiến sĩ quân đội nhân dân
“từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” phải “Trung với Đảng, trung với
Nước, hiếu với Dân”,... Những lời dạy quý báu đó của Người không chỉ dành riêng
cho quân đội, mà còn chung cho tất cả cán bộ, đảng viên, cho mỗi người cách
mạng. Toát lên từ những lời dạy ấy là thước đo đạo đức “nói đi đôi với làm”, đã
“nói thì phải làm”.
Để
đạt được “tư cách một người cách mệnh”, người cán bộ, đảng viên phải không
ngừng học tập để nâng cao hiểu biết, gắn liền học với hành, “tri để hành”, lý
luận gắn liền với thực tiễn; đồng thời, phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân, không vụ
lợi, vị kỷ, để toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng thời
Người cũng khẳng định kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân, thì phải chống những thói hư tật xấu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
gọi là những chứng bệnh phải tẩy sạch trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được Người viết năm 1947 với bút danh
X.Y.Z. Người chỉ rõ 3 can bệnh là bệnh
chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa, phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc
vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét