Với
đất nước Việt Nam, Biển và hải đảo có vị trí chiến lược hết sức quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ đặc điểm phức tạp và vị
trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh của các vùng biển,
đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã sớm quan tâm tới việc quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và giải quyết tranh
chấp trên biển đồng thời với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Ngay sau
ngày hoà bình lập lại (1954), trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung mọi nguồn lực để bảo vệ vùng
biển và khai thác tài nguyên biển. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biển không chỉ là
“cửa ngõ của quốc gia”, là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu
và đẩy mạnh phát triển kinh tế, mà còn là nơi mà kẻ địch thường đột nhập để phá
hoại về mọi mặt đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy, trong
bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển (1956), bằng một ví dụ
rất mộc mạc, dễ hiểu Người đã chỉ rõ vị trí vai trò của biển và sự cần thiết
phải tổ chức lực lượng bảo vệ biển: “Thí dụ: Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa.
Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế vào chỗ nào trước? Nó vào ở
cửa trước. Vì vậy ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển, vì bọn địch
thường thả bọn mật thám, gián điệp vào tìm chỗ ẩn núp ở miền biển để phá phách.
Nếu để nó lọt vào, thì người bị thiệt hại trước là đồng bào miền biển. Nếu mình
không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một
nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào
miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc.”[1].
Lời dạy đó của Người không những chỉ rõ về vị trí vai trò của biển mà còn chỉ
rõ sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế biển với
củng cố quốc phòng an ninh trên biển, ven biển và hải đảo.
Đánh giá về vị trí, vai trò của
biển nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Ngày trước ta chỉ có đêm và
rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải
biết giữ gìn lấy nó”. Lời dạy đó của Người như muốn dặn dò, nhắn nhủ mỗi chúng
ta phải biết kế thừa, nâng niu, giữ gìn và trân trọng những thành quả cách mạng
mà thế hệ đi trước đã phải đổ biết bao xương máu mới giành lại được. Đồng thời,
phải thấy được những điều kiện, tiền đề vô cùng thuận lợi, đặc biệt là vị trí
vai trò quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở đó, biết giữ gìn, khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn tài
nguyên thiên nhiên vô cùng tươi đẹp của non sông, đất nước ta.
Quán triệt tư tưởng của Người,
trước khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1975), Đảng và
Nhà nước ta đã có quyết định lịch sử: Giải phóng quần đảo Trường Sa, giữ vững
thế đứng của Việt Nam trên Biển Đông. Ngày 12/5/1977, Chính phủ ta ra Tuyên bố
về các vùng biển Việt Nam. Sau 5 năm, kể từ ngày ra tuyên bố lịch sử đó, ngày
12/11/1982, Chính phủ ta lại ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh
hải Việt Nam, mở đầu một trang mới trong lịch sử tiến ra biển, thực hiện chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta trên biển. Nghị quyết Quốc
hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 về phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982
đã thể hiện rõ: “Lập trường trước sau như một của Chính phủ khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời chủ
trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các tranh chấp
khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần
bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc
biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”. Ngày 30/11/1987, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 06/NQ-TƯ về bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tăng cường sự có mặt của Việt Nam ở Biển Đông và
quần đảo Trường Sa. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến
năm 2000 (được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng)
xác định rõ: “Từng bước khai thác toàn diện các tiềm năng to lớn của kinh tế
biển, phát triển kinh tế ở hải đảo, làm chủ lãnh hải và thềm lục địa, thực hiện
chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế”. Chủ trương đó đã tạo ra bước ngoặt
quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền,
tăng cường quốc phòng và an ninh trên các vùng biển, đảo nước ta. Ngày
05/6/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03/NQ-TƯ về nhiệm vụ phát triển kinh tế
biển trong những năm trước mắt, đã chỉ rõ: “Vị trí và đặc điểm của nước ta cùng
với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải
đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ
quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phấn đấu trở
thành một nước mạnh về kinh tế biển”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng xác định: “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế
và an ninh quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước
để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài”.
Chỉ thị số 20/CT-TƯ ngày 22/9/1997
của Bộ Chính trị về đẩy mạnh và phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá khẳng định: “Vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến
lược, có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất nước ta, là tiềm năng
và thế mạnh quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2001- 2010 (thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng) tiếp tục khẳng định về vị trí vai trò của biển, đảo và sự cần thiết phải
đẩy mạnh phát triển kinh tế biển: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển
và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù hơn 1 triệu km2 thềm lục địa…; tiến mạnh
ra biển và làm chủ biển khơi. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển,
khai thác lợi thế của các khu vực biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển
cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra
biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”.
Trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Xây dựng và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng
điểm với những ngành có lợi thế so sánh để sớm đưa nước ta thành quốc gia mạnh
về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác
quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu
khí, hải sản, du lịch biển; đẩy nhanh ngành công nghiệp đóng tàu và công nghiệp
khai thác, chế biến hải sản”; điều đó cho thấy, Đảng ta không những chỉ rõ về
cách thức, bước đi, mục tiêu yêu cầu trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh
tế biển mà còn chỉ rõ nội hàm của quá trình đó.
Trong
văn kiện Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh các ngành kinh tế
biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân
vùng biển đảo…”.
Tất cả những vấn đề trên cho thấy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc, nhất quán về vị trí,
vai trò của biển và sự cần thiết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt tư
tưởng của Người và chủ trương, đường lối của Đảng về biển và phát triển kinh tế
biển trong những năm qua, nhất là trong hơn ba thập kỷ thực hiện đường lối đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tích,
kết quả đáng phấn khởi. Đặc biệt là việc triển khai thực hiện có hiệu quả
Chương trình Biển Đông - Hải đảo của Nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc
củng cố, tăng cường khả năng phòng thủ trên các tuyến đảo và ven bờ; tạo ra thế
phòng thủ liên hoàn bờ - biển - đảo vững chắc; tạo lập và tăng cường thế trận
lòng dân trên các vùng biển, đảo; chủ động bảo vệ đất liền và các vùng biển,
đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Thông qua việc đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng và hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá trên các tuyến đảo… đã góp phần
thu hút, điều chỉnh dân cư; giúp cho người dân yên tâm định cư, sinh sống gắn
bó lâu dài tại các đảo. Đây là vấn đề không chỉ có ý nghĩa to lớn trong phát
triển kinh tế - xã hội, mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều chỉnh
dân cư, củng cố quốc phòng an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân trên biển. Lực lượng lao động tại các làng chài
trên đảo và các trang trại nuôi trồng thuỷ sản trên biển, nếu được tổ chức,
huấn luyện và quản lý chặt chẽ sẽ trở thành lực lượng dân quân trên biển. Hơn
ai hết, họ là người nắm chắc tình hình trên biển. Họ vừa là người trực tiếp lao
động sản xuất, vừa là lực lượng cảnh giới; đồng thời, là lực lượng chiến đấu
tại chỗ khi cần thiết. Lực lượng này sẽ nhanh chóng phát hiện và dập tắt ngay
từ đầu những âm mưu, thủ đoạn và hành động phá hoại của các thế lực thù địch.
Khi có tình huống bất trắc xảy ra, họ chính là lực lượng có mặt đầu tiên để xử
lý, ngăn chặn không để cho vụ việc phát triển phức tạp; hoặc họ có thể phối
hợp, hiệp đồng tác chiến với các lực lượng chuyên trách (Biên phòng, Hải quân,
Cảnh sát biển) trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; tạo điều kiện
thuận lợi cho các lực lượng chuyên trách hoàn thành nhiệm vụ.
Việc quy hoạch lại dân cư, đưa dân
ra định cư, sinh sống ở các đảo và quần đảo theo tinh thần của Chương trình
Biển Đông - hải đảo vừa giải quyết được vấn đề việc làm, vừa khai thác được
tiềm năng, lợi thế so sánh về kinh tế biển, lại vừa tạo ra khả năng bảo đảm hậu
cần tại chỗ, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của quốc gia. Xét về
mặt quốc phòng an ninh, việc thực hiện có hiệu quả Chương trình Biển Đông - hải
đảo góp phần tăng cường sự có mặt thường xuyên của các công dân nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là người chủ của các nguồn tài nguyên
trên các vùng biển, đảo. Trên cơ sở đó, vừa khẳng định chủ quyền, vừa bảo vệ
các nguồn lợi hải sản, vừa tạo dựng được thế trận “Dĩ dật đãi lao” trong chiến
lược bảo vệ Tổ quốc. Đây là một nghệ thuật tạo dựng thế trận được đúc rút từ
truyền thống quân sự của dân tộc. Thế trận đó cho phép “lấy cái sung sức của
lực lượng tại chỗ mà đánh quân địch mệt mỏi từ xa tới”.
Bên cạnh những lợi thế to lớn về
biển đảo cho phép đem lại những thành tích kết quả trên đây, tình hình Biển
Đông nói chung và khu vực Trường Sa nói riêng đang đặt ra cho đất nước ta nhiều
thách thức khó lường. Đây là nơi tập trung, tiềm ẩn những mâu thuẫn vốn có cũng
như khả năng tiềm tàng có thể dẫn tới xung đột, tranh chấp về chủ quyền biển,
đảo và các bãi đá ngầm giữa các quốc gia trong khu vực. Các thế lực thù địch
đang xúc tiến thực hiện mưu đồ “Quốc tế hoá” vùng biển Trường Sa; lợi dụng thời
cơ "gặm nhấm" dần các bãi cạn, duy trì sự có mặt thường xuyên của chúng
để đòi được phân chia quyền lợi trong khu vực. Đặc biệt là các thế lực siêu
cường luôn tạo cớ để kiểm soát, từng bước thực hiện tham vọng độc chiếm Biển
Đông. Mặt khác, vùng biển Trường Sa không chỉ là nơi có vị trí chiến lược quan
trọng về quốc phòng an ninh, mà còn là nơi rất giàu về tài nguyên biển nên tàu
thuyền nước ngoài thường xuyên nhòm ngó, xâm nhập ngư trường một cách trái phép
để khai thác trộm hải sản, thăm dò, nghiên cứu và trinh thám vùng biển nước ta.
Vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền và
lợi ích quốc gia trên biển, giữ gìn hoà bình và ổn định trên các vùng biển, đảo
của Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi chúng ta phải chú trọng gắn kết chặt chẽ giữa xây
dựng một nền kinh tế biển mạnh với xây dựng một nền quốc phòng toàn dân trên
biển vững mạnh. Trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề
sau:
Một là, làm tốt hơn nữa công tác
tuyên truyền về biển, đảo cho các cấp, các ngành, nhân dân và lực lượng vũ
trang nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, góp phần nâng cao cảnh giác và ý thức
trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự, an toàn và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trên biển cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lực lượng
lao động thường xuyên gắn với môi trường biển đảo.
Hai là, tập trung hơn nữa đối với
việc xây dựng sức mạnh quốc gia trên biển, nhất là xây dựng Hải quân nhân dân
Việt Nam vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, đủ sức làm tròn vai trò nòng cốt bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục
địa của Tổ quốc trong thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trên
biển.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng, các ngành thuộc Trung ương và địa phương có liên quan để bảo
vệ có hiệu quả chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Thực hiện tốt khâu tổ
chức hiệp đồng giữa các lực lượng ven bờ, trên biển, trên đảo nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp để quản lý, bảo vệ, làm chủ vùng biển. Trong đó Hải quân phải
thực sự là lực lượng có trách nhiệm chủ trì hiệp đồng với các lực lượng hoạt
động trên biển về tổ chức, thông tin, huấn luyện dân quân, tự vệ biển, diễn tập
bảo vệ đảo và các cơ sở kinh tế của ta trên biển.
Bốn là, tiếp tục củng cố, xây dựng
lực lượng dân quân, tự vệ biển. Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng đối
với lực lượng tự vệ trên các tàu đánh bắt hải sản xa bờ. Trong thời gian vừa
qua, việc tổ chức thực hiện chủ trương khai thác hải sản xa bờ còn nhiều hạn
chế về mặt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, xét về mặt quốc phòng an ninh thì đây
là một trong những hoạt động có ý nghĩa vô cùng to lớn. Sự hiện diện của lực
lượng đánh bắt hải sản tại các vùng biển xa bờ không chỉ góp phần khai thác tốt
tiềm năng, lợi thế của đất nước về nguồn tài nguyên biển, mà còn góp phần quan
trọng vào việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Lực lượng lao
động trên các tàu đánh bắt xa bờ thường xuyên hoạt động trên biển nên họ rất thông
thạo về địa hình, luồng lạch; am hiểu về thời tiết, khí hậu, thuỷ văn; chịu
đựng được sóng gió và giỏi về cách đánh sông nước… Đây là nguồn lực rất tốt để
bổ sung vào lực lượng dự bị của Hải quân và là lực lượng quan trọng để tổ chức
các đơn vị dân quân tự vệ trên biển. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tiếp tục
nghiên cứu, tìm ra giải pháp về tổ chức, quản lý để nâng cao hiệu quả kinh tế
của hoạt động khai thác hải sản xa bờ. Đây là bài toán đang chờ lời giải từ các
cơ quan quản lý và nghiên cứu khoa học thuộc Bộ Thuỷ sản, các Bộ, ngành có liên
quan và các địa phương có biển.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
vị trí vai trò của biển và đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với củng cố
quốc phòng an ninh là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi tất
cả các quốc gia có biển đều chú trọng đẩy mạnh các hoạt động khai thác tiềm
năng, lợi thế của biển cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; bên cạnh đó là
sự phức tạp, khó lường của tình hình an ninh và sự toàn vẹn về chủ quyền quốc
gia trên biển thường xuyên bị đe doạ bởi các thế lực siêu cường đang tìm mọi
cách để thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông. Những tư tưởng đó của Người là cơ
sở, nền tảng để Đảng ta hoạch định chủ trương, xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế biển, đảo gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa
thiêng liêng của Tổ quốc./.
N.X.T-H1
[1] Hồ Chí
Minh (1956), "Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển",
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Nxb
CTQG, H.2011, tr. 311.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét