Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (KTNN) là vấn đề căn cốt quy định bản chất chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là điều không thể.
Quan
niệm phát triển nền KTTT định hướng XHCN là “một đột phá lý luận rất cơ bản và
sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của thế giới”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng XHCN, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ
vai trò chủ đạo, v.v.. Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh, phát huy vai trò
chủ đạo của KTNN góp phần quan trọng thúc đẩy “Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các
cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá
cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải
thiện”.
Không
thừa nhận thành tựu trên, các thế lực thù phản động, cơ hội chính trị ra sức
truyên truyền xuyên tạc vai trò chủ đạo của KTNN, nhằm phủ nhận bản chất của nền
KTTT định hướng XHCN và coi đây là trọng điểm chống phá đường lối đổi mới kinh
tế của Đảng nói chung và thành công của Đại hội XIII nói riêng. Núp bóng danh
nghĩa “chuyên gia kinh tế”, “doanh nhân thành đạt”, “đại diện hợp pháp”… của cộng
đồng doanh nghiệp, người dân và triệt để lợi dụng hạn chế, yếu kém của một số
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong sản xuất kinh doanh, chúng đưa ra những luận
điệu, như: KTNN giữ vai trò chủ đạo sẽ thủ tiêu cạnh tranh, phân biệt đối xử với
các thành phần kinh tế khác; sự thể hiện vai trò chủ đạo của KTNN đối với nền
kinh tế là mơ hồ, thiếu thực tế; cần giải thể các doanh nghiệp, tập đoàn KTNN
vì sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí lớn, v.v.. Qua
đó, tạo tâm lý hoài nghi, gây mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế,
cùng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc ta.
KTNN
GIỮ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO KHÔNG PHỦ ĐỊNH CẠNH TRANH
KTNN
giữ vai trò chủ đạo trong nền KTTT định hướng XHCN không thủ tiêu cạnh tranh. Nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”, KTNN giữ
vai trò chủ đạo không phủ định cạnh tranh mà còn là nhân tố thúc đẩy sự cạnh
tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới, hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan phải tôn trọng và thực hiện đầy
đủ các quy luật KTTT trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Đến
nay, Việt Nam đã ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do
(FTA), trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, như CPTPP, EVFTA, v.v.. Đồng
thời, chúng ta đã ký, chờ phê chuẩn có hiệu lực hiệp định RCEP; đang tiến hành
đàm phán 2 hiệp định với EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, Iceland, Liechtenstein) và
Israel. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Chỉ số Năng lực cạnh tranh
toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 đứng thứ 67/137 nền kinh tế, tăng 10 bậc
so với năm 2018. Điều đó cho thấy, cộng đồng quốc tế công nhận độ mở và năng lực
cạnh tranh của nền KTTT định hướng XHCN ngày càng cao.
Các
doanh nghiệp, tập đoàn KTNN hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực mà doanh
nghiệp tư nhân không muốn làm và không làm được, hoặc đóng vai trò dẫn dắt,
khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, như: quốc phòng, an
ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông…; tham gia cung ứng
các sản phẩm dịch vụ công ích nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ nguyên tắc thị trường,
bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương các DNNN phải “hoạt động theo cơ chế thị trường,
quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm
tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế”. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta không ưu ái DNNN và
phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Doanh
nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh
bình đẳng, công khai, minh bạch, chịu sự điều tiết của các quy luật KTTT và thể
chế KTTT định hướng XHCN.
Trong
quá trình cổ phần hóa, đổi mới sắp xếp lại hệ thống DNNN, Chính phủ chủ trương
thoái vốn và nhường lại thị phần ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác có khả năng và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, như:
Thương mại tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, vận tải, v.v.. Tổ chức quán triệt, thực
hiện nghiêm túc chủ trương “Xóa bỏ cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp
dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng,
đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế…” gắn với đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế KTTT. Đảng, Nhà nước ta luôn
quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế cạnh
tranh bình đẳng, cùng phát triển; trong đó, kinh tế tư nhân được “… khuyến
khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ
trợ phát triển thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao”.
Các
yếu tố trên đã tạo môi trường thuận lợi, động lực thúc đẩy sự phát triển vượt bậc
về số lượng, quy mô, chất lượng của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, như: số
lượng tư nhân đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh là 591.499 doanh
nghiệp, chiếm tỉ lệ 96,9% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả
sản xuất kinh doanh của cả nước; gấp nhiều lần so với số liệu tương ứng của
DNNN là 2.260 doanh nghiệp và 0,4%. Đặc biệt, trong Quý I và tháng 4/2021 đã có
44.166 doanh nghiệp thành lập mới, 21.381 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động;
trong đó, doanh nghiệp quy mô vốn đầu tư trên 100 tỷ đồng là 465 doanh nghiệp,
tăng 33,2% so với cùng kỳ năm 2020. Việc kinh tế tư nhân tham gia vào các lĩnh
vực nền tảng của nền kinh tế, như: công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, xây dựng
đường cao tốc, sân bay, cảng biển, năng lượng tái tạo, truyền tải điện,
logistics… ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng
của nền kinh tế. Trong đó, nhiều doanh nhiệp, tập đoàn đã khẳng định thương hiệu
đối với thị trường trong nước và quốc tế, như: Vingroup, Thế giới di động, Hòa
Phát, Vietjet, VP bank, v.v.. Đây là minh chứng không thể chối cãi về chủ
trương kiến tạo, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong nền
KTTT định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
KTNN
NGÀY CÀNG ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH VÀ PHÁT HUY
Thực
tế đã chứng minh, vai trò chủ đạo của KTNN ngày càng được khẳng định và phát
huy; KTNN thực sự là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ
mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc
phục các khuyết tật của KTTT.
Số
liệu khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho thấy: các
doanh nghiệp, tập đoàn KTNN nắm giữ tỉ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối một
số ngành, lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: 25% vốn điều lệ, 48% thị phần
huy động vốn và 50% thị phần cho vay của toàn hệ thống tín dụng; 86% sản lượng
điện phát vào mạng lưới, 97% sản lượng than sạch, 100% sản lượng dầu thô, 85%
thị phần bán lẻ xăng dầu; 96,4% thị trường băng thông rộng, v.v. Về cơ cấu nền
kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, thì KTNN cũng chiếm tỉ trọng cao
nhất trong tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam với 27%, trong khi tỉ lệ của kinh tế
tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư ngước ngoài là 10% và 20%.
Trong
điều kiện thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tác động tiêu cực tới đời sống
kinh tế - xã hội mọi quốc gia trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của
Việt Nam giai đoạn 2016- 2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm.
Đặc
biệt, năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, đại dịch Covid-19
nhưng với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ nên tăng trưởng GDP vẫn
đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới; quy mô GDP tăng khoảng
1,4 lần so với 2015, đạt trên 340 tỷ USD, tương đương với thu nhập bình quân đầu
người đạt hơn 3.500 USD. Các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội được duy trì ổn
định, như: Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 18,6% năm 2011 xuống dưới 4% trong giai
đoạn 2016-2020; tỉ giá, thị trường ngoại hối ổn định, cán cân thanh toán thặng
dư (xuất siêu 5 năm liên tiếp); tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần
10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 76%
năm 2015 lên 90,7 dân số năm 2020…; nhiều công trình hạ tầng về giao thông,
năng lượng, thủy lợi, đô thị, khu công nghiệp, thông tin truyền thông, y tế,
giáo dục… được hoàn thiện, đưa vào khai thác, sử dụng tạo thêm năng lực cạnh
tranh và diện mạo mới cho nền kinh tế.
Đồng
thời, KTNN là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng trong bảo đảm quốc phòng,
an ninh, xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội… tạo cơ sở nền tảng vững chắc để
Việt Nam thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa quyết liệt phòng chống dịch với
tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội.
KHẲNG
ĐỊNH VỊ TRÍ ĐẦU TẦU VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Hiện
nay, đa số doanh nghiệp, tập đoàn KTNN khẳng định vị trí đầu tàu về hiệu quả sản
xuất kinh doanh, phát huy tốt vai trò là công cụ, lực lượng vật chất để Chính
phủ điều tiết nền kinh tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đóng
góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Số
liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2020 cho thấy: hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của DNNN đạt tỉ lệ cao hơn nhiều so với doanh nghiệp
ngoài nhà nước, cụ thể: 78,5% có lãi, 2,2 hòa vốn và 19,3% thua lỗ; của doanh
nghiệp ngoài nhà nước tương ứng là 43,7%, 7,7% và 48,6%. Tuy chỉ chiếm 0,4%
trong tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng DNNN huy động, thu hút vốn cho sản xuất
kinh doanh đạt 9,65 triệu tỉ đồng, có doanh thu thuần cao nhất với 13,41 triệu
tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ tương ứng
là 24,8%, 56,7% và 36,1% của toàn bộ doanh nghiệp). Trong khi đó, doanh nghiệp
ngoài nhà nước chiếm 96,9% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng chỉ thu hút được
22,25 triệu tỉ đồng vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh thu đạt 3,41 triệu tỉ đồng,
lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ tương ứng là 57,2%,
14,4% và 21,3%); thu nhập bình quân tháng một lao động của DNNN đạt 12,56 triệu
đồng, còn doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ đạt 7,87 triệu đồng. Theo số liệu thống
kê của Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report JSC. - VNR)
công bố TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2020 thì có đến 7 DNNN thuộc
nhóm 10 doanh nghiệp hàng đầu.
Để
tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo của KTNN, Đảng, Nhà ta nước chủ trương đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Thực hiện nhất quán chủ trương thị trường
đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực và cơ chế
giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính gắn tăng cường đối thoại giữa Chính phủ, các ban, bộ,
ngành Trung ương, địa phương với cộng đồng doanh nghiệp để tập trung sửa đổi kịp
thời những mâu thuẫn, chồng chéo, tháo gỡ các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển
kinh tế và doanh nghiệp.
Đồng
thời, quyết liệt chỉ đạo quá trình đẩy nhanh, nâng cao hiệu quả các chương
trình, đề án của Chính phủ về cổ phần hoá, cơ cấu lại, đổi mới DNNN gắn với
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng hệ thống
doanh nghiệp, tập đoàn KTNN trở thành những điểm sáng, mẫu mực về hiệu quả sản
xuất kinh doanh, trách nhiệm cộng đồng. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình phát triển
nền KTTT định hướng XHCN; khơi dậy khát vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
vào sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
TVV-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét