Karl Marx (1818 - 1883) |
Cuộc đời và những cống hiến của nhà tư tưởng vĩ đại Karl Marx (1818 - 1883) là nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, ...
Karl Marx là
một trong những nhà tư tưởng vĩ đại trên thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của
ông có nhiều thăng trầm và cũng đầy gian khổ. Những tư tưởng của ông góp phần
làm thay đổi tư duy của một bộ phận những dân tộc chịu áp bức, từ đó giúp họ đứng
lên giành lại độc lập và thoát ra cảnh lầm than.
Karl Marx
sinh ngày 5/5/1818, trong một gia đình trung lưu ở thành phố Rhineland, Trier –
Đức. Ở tuổi 17, Mác tiếp thu nền giáo dục cổ điển và ông học tập một năm tại
khoa luật thuộc Đại học Bonn. Năm 18 tuổi ông và bà Jenny von Westphalen (1814
- 1881) đính hôn. Ông bắt đầu chịu ảnh hưởng bởi triết lý của G.W.F Hegel mà
sau đó chi phối phong trào Chủ nghĩa duy tâm Đức.
Sau khi hoàn
thành luận án tiến sỹ, ông chuyển sang báo chí và bắt đầu cộng tác với tờ
Rheinische Zeitung. Ông nhanh chóng trở thành chủ bút, nhưng sau đó bị các nhà
chức trách cho đóng cửa tờ báo vào tháng 5/1843 và Karl Marx chuyển về lại
Paris.
Khi ở Paris
ông đã phát triển hiệp hội lâu dài với Ph. Ăngghen, và đặt ra những suy luận về
chủ nghĩa cộng sản mà ngày nay được biết đến cái được gọi là Các bản thảo ở
Paris. Sau khi bị trục xuất khỏi Pháp, ông chuyển đến Brussels và ghi chép lại
những tư tưởng triết học phát triển trong Luận cương về Feuerbach.
Vào năm 1846,
Karl Marx đã cùng Ăngghen viết Hệ tư tưởng Đức, đây là văn bản đặt nền móng cho
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Quay lại Pháp, ông bắt đầu làm việc cho một loạt các
tờ rơi về Đấu tranh giai cấp ở Pháp và trong thời điểm này, năm 1848, ông cùng
Ăngghen xuất bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản.
Sau khi chuyển
đến London năm 1849, Karl Marx đã cống hiến nhiều năm nỗ lực cho tác phẩm chính
là Tư bản - một tác phẩm về kinh tế chính trị quan trọng của Karl Marx được viết
bằng tiếng Đức. Cuốn sách là sự phân tích về chủ nghĩa tư bản, về phương thức sản
xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Với khẩu hiệu
là “Công nhân của thế giới đoàn kết” là lời kêu gọi tập hợp cho phong trào cách
mạng Bolshevik của Nga và cuộc cách mạng năm 1949 của Trung Quốc; và vận động của
Karl Marx “Mỗi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu” đã trở thành nguồn
cổ vũ cho các Đảng cộng sản trên khắp thế giới.
Trước Chiến
tranh thế giới thứ I, các tác phẩm của Karl Marx làm nổi lên một số phản hồi
tích cực từ bên ngoài Đông Âu. Sự hỗ trợ nhiệt tình từ Lênin là nhân tố chủ chốt
ảnh hưởng đến những cuộc cách mạng ở Nga, và một phần hệ tư tưởng chính thống của
Liên Xô được hướng theo bởi ảnh hưởng thời kỳ hậu chiến. Năm 1920, Tổ chức
Frankfurt, một tổ chức của các trí thức đã họp lại nhằm thảo luận và phổ biến
chủ nghĩa Mác, sau đó họ được sự tham gia của nhà triết học Mỹ Herbert Marcuse.
Chủ nghĩa Mác
đã trở thành một lực lượng chủ chốt trong giới tri thức Tây Âu và những nước
nói tiếng Anh trong những năm 1930, ảnh hưởng trí tuệ của chủ nghĩa Mác đạt đỉnh
điểm vào những năm 1970, nhưng sau đó bị từ chối. Những di sản trí tuệ còn sót
lại của Mác bị giới hạn trong các nguyên lý của triết học.
Di sản Karl
Marx để lại cho đời rất nhiều. Chủ nghĩa Mác đã trở thành hệ tư tưởng chính thống
của các quốc gia, khi đó, là đỉnh điểm của họ, cái được xem như cuộc đua sinh tồn
thứ 3. Những lý luận của ông cũng đã ảnh hưởng đến sự xuất hiện của các phong
trào dân chủ xã hội chủ nghĩa mà trước đây đã từng không chấp nhận, hoặc cấm
đoán không xem chủ nghĩa Mác như là một hệ tư tưởng của họ.
Một số tác phẩm
của ông đặc biệt là Tuyên ngôn Cộng sản quen thuộc với hàng triệu nhà hoạt động
chính trị trên toàn thế giới, đây cũng chính là nhân tố chính trong việc áp dụng
các hình thức của Chủ nghĩa Cộng sản bởi Liên Xô, và tiếp theo là các chính phủ
Cuba, Venezuela, Bolivia, Nicaragua, và các quốc gia khác.
Trong suốt những
năm sau của cuộc đời cho đến khi ông qua đời vào năm 1883, Karl Marx là một người
ủng hộ tích cực của Liên đoàn Cộng sản, mà sau này trở thành Quốc tế Cộng sản./.
CĐT-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét