Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, Đạo đức cách mạng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân
gồm những phẩm chất cần tu dưỡng, những định hướng để vươn tới cái chân, thiện,
mỹ của con người. Vì vậy, lúc sinh thời Người luôn đặc biệt quan tâm đến việc
rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, bởi “Có đạo đức cách mạng
thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng, đưa cách mạng
tới thắng lợi hoàn toàn”. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại bổ
sung những tiêu chuẩn đạo đức cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn để giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên hướng đến hoàn thiện tư cách đạo đức của người cách
mạng chân chính.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh vừa là người đặt ra tiêu chuẩn đạo đức vừa là một tấm gương thực hành
đạo đức chân chính và chuẩn mực. Tư tưởng và hành động của Người về đạo đức
cách mạng là nhất quán từ trong những bài giảng đầu tiên về tư cách người cách
mạng cho đến những lời cuối cùng gửi lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Năm
1927, cuốn sách Đường Cách mệnh, cẩm nang đỏ chỉ đường cho những người cách mạng
Việt Nam đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở đầu bằng vấn đề Tư cách một người
cách mạng, đó là: “Tự mình phải cần kiệm, vị công vong tư, nói thì phải làm, giữ
chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn vật chất, không hiếu danh, không
kiêu ngạo”. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ nhân
dân mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn với các đồng chí
trong bộ máy chính quyền rằng: “Ta có thể nói Chính phủ là công bộc của dân vậy.
Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự
do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt
quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại
cho dân thì phải tránh”. Tháng 2-1947, khi quân dân ta vừa bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khuyên nhủ cán bộ: “Mình đối với mình
đừng tự mãn, đừng kiêu ngạo, phải siêng năng, tiết kiệm. Đối với đồng chí mình
thân ái với nhau nhưng không che đậy những điều dở, không nên tranh giành ảnh
hưởng của nhau, không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối
hiếu danh, hiếu vị. Đối với nhân dân phải hiểu nguyện vọng của dân, sự cực khổ
của dân, hiểu tâm lý của dân, phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm
gương cho dân”. Ngay cuối năm đó, giữa lúc cuộc kháng chiến đang vào giai đoạn
khó khăn ác liệt, địch đang tập trung lực lượng tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài hoàn thành tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Người
phân tích, chỉ dẫn cụ thể 12 điểm về tư cách của người cán bộ, đạo đức cách mạng
là thực hiện năm điều tốt Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm và nhấn mạnh: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Năm 1949, khi quân dân ta
chuẩn bị bước vào giai đoạn tổng phản công, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm
CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, trong đó Người đặc biệt đề cao việc thực hiện 4 đức tính cần,
kiệm, liêm, chính: “Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; Đất có bốn phương
Đông, Tây, Nam, Bắc; Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm Chính. Thiếu một mùa, thì
không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì
không thành người”. Tác phẩm này không chỉ có giá trị to lớn trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Ðảng và phong trào thi đua yêu nước lúc bấy giờ mà còn có ý
nghĩa đặc biệt trong việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Năm 1954, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô. Một
nửa đất nước được giải phóng, bắt tay ngay vào việc tiến hành khôi phục kinh tế,
văn hóa, xã hội. Đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài Đạo đức công
dân, Người cán bộ cách mạng, trong đó chỉ rõ: “Lợi ích chung của nước nhà và lợi
ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ của
công dân là nhất trí”. Đồng thời, Người cũng lưu ý những công bộc của dân rằng:
“Bổn phận của người cán bộ cách mạng là suốt đời hết lòng hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Phải cố gắng thực hiện cho kỳ được: cần-kiệm-liêm-
chính, chí công vô tư”. Người còn viết bài Đạo đức cách mạng nhằm phê phán những
suy nghĩ và hành động lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên, khi cho rằng làm
cách mạng cốt là để có địa vị, được hưởng thụ, từ đó kiêu ngạo, trưng diện, hưởng
lạc, lãng phí của công, tự tư tự lợi, xa rời Đảng và nhân dân, vì vậy: “Đảng ta
từ trên đến dưới phải chú trọng việc giáo dục đạo đức cách mạng, tăng cường
tinh thần cảnh giác, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Người còn giảng giải về
khái niệm Tự phê bình, phê bình, sửa chữa: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc
đoàn thể) thật thà nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác sửa chữa
mà cũng là để người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm. Phê bình
là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết điểm thì thành khẩn nói cho họ
biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ” và Người cho rằng: “Chỉ có đảng chân chính
cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh
phê bình và kiên quyết sửa chữa”.
Sau ba năm
khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội (1955-1957), miền Bắc đã cơ bản
khắc phục được hậu quả chiến tranh. Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 11-1958 đã bàn về tình hình nhiệm vụ và kế hoạch nhà nước
1958-1960, vạch ra chủ trương thực hiện cải tạo XHCN. Trong tình hình đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đạo đức cách mạng, trong đó, Người đặc biệt chỉ ra
những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định: “Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Cụ thể, đạo đức cách mạng
là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Ra sức làm việc cho
Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng
của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Nhân kỷ niệm
39 năm ngày thành lập Đảng, ngày 26-1-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi ý nội
dung cho Ban Tuyên huấn Trung ương chuẩn bị một bài báo về đạo đức cách mạng để
đăng báo Nhân Dân đúng vào ngày 03-2-1969. Khi Ban Tuyên huấn gửi bản thảo đến,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sửa lại và đặt tựa đề là “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng”, Người cho đánh máy và chuyển bản thảo bài viết tới
từng đồng chí trong Bộ Chính trị đọc góp ý kiến trước khi đăng báo. Các đồng
chí trong Bộ Chính trị đều đọc và có ý kiến vào bản thảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh
xem lại, sửa chữa và lấy bản thảo có ý kiến của đồng chí Trường Chinh làm bản gốc
vì có nhiều ý thiết thực nhất. Ngày 30-1-1969, Người làm việc với Trưởng ban
Tuyên huấn Tố Hữu. Đồng chí Tố Hữu đề nghị: “Thưa Bác, cán bộ Đảng ta nói chung
là tốt, chỉ có một số ít thoái hóa biến chất. Bác đặt đầu đề như vậy thì mạnh
quá! Xin phép được đưa vế “Nâng cao đạo đức cách mạng lên trước”, vế “Quét sạch
chủ nghĩa cá nhân ra sau”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quay sang hỏi đồng chí Vũ Kỳ:
“ý kiến chú thế nào?” Đồng chí Vũ Kỳ cũng đồng ý với ý kiến của đồng chí Tố Hữu.
Người nói: “Các chú nói có lý nhưng chưa hợp lý. Bác muốn hỏi điều này: Gia
đình các chú tiết kiệm mua sắm được bộ bàn ghế, giường tủ mới. Vậy trước khi kê
vào phòng, các chú có khênh đồ cũ ra và quét dọn sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn
thỉu mà kê bộ bàn ghế, giường tủ mới vào?”. “Bác đồng ý đổi tên bài thành: Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nhưng ở trong bài dứt khoát
phải để nguyên ý: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bài
báo ký bút danh T.L đăng trên báo Nhân Dân số 5409, đã nghiêm khắc phê phán những
đảng viên đạo đức thấp kém, chỉ ra những hệ lụy sai trái, hậu quả khôn lường của
những ai sa vào chủ nghĩa cá nhân: “Việc gì cũng nghĩ đến mình trước hết. Họ
không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình. Do cá nhân chủ nghĩa
mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh
trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem
khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế,
mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Cũng do cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tinh thần
trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”. Đồng thời, bài báo cũng kêu gọi:
“Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi
dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật. Phải đi
sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân”.
Mấy tháng
sau, từ ngày 10-5 đến ngày 19-5-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh sửa lại lần cuối bản
Di chúc. Trong những lời tâm huyết để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
trước khi về cõi vĩnh hằng, Người căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, với phương pháp đặc trưng là
ưu tiên dùng Đức trị trước Pháp trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh mang đậm tính chất
truyền thống và yếu tố mới mẻ của thời đại, được kết hợp và nâng cao trong bối
cảnh lịch sử, thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Đạo đức Hồ Chí Minh mang tính
nhân văn cao cả, là đạo đức của chủ nghĩa tập thể, vì tập thể, do tập thể và
kiên quyết loại bỏ chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ là lý
thuyết mà là đạo đức hành động, bởi chỉ có kết quả tu dưỡng cụ thể của mỗi con
người mới là mục tiêu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và chính Người là một tấm
gương sáng nhất về tu dưỡng đạo đức cách mạng. Những yếu tố này đã cho thấy đạo
đức Hồ Chí Minh là nền tảng của con người Việt Nam cho quá khứ, hiện tại và
tương lai. Những tư tưởng về đạo đức cách mạng vẫn mang hơi thở của cuộc sống
và càng cho chúng ta thấy rõ tầm nhìn xuyên thế kỷ của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
khi 50 năm trước Người đã từng cảnh báo rằng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Thực tế lịch
sử cho thấy, sau những thắng lợi, thành công, kỳ tích của Đảng và dân tộc,
không ít cán bộ, đảng viên đã trở nên quan liêu, mệnh lệnh, bảo thủ, xa rời quần
chúng, thoái hóa biến chất, tham ô, lãng phí, bè cánh... khiến cho nền tảng đạo
đức xã hội xuống cấp nhanh chóng. Vì vậy, đồng thời với sự lãnh đạo đất nước
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mở rộng hội nhập quốc tế, Đảng
ta cũng đã đề ra các giải pháp kịp thời chỉnh đốn, củng cố và nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng và tư cách đạo đức của đảng viên. Đây là một công việc không
dễ dàng vì: “Việc đấu tranh với kẻ địch ở trong người, trong nội bộ, trong tinh
thần là một khó khăn, đau xót”, tuy nhiên với tinh thần chân chính, cách mạng,
đổi mới và phát triển, Đảng ta đã nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình,
kiên quyết xử lý những cá nhân, tập thể làm mất uy tín của Đảng và làm xói mòn
lòng tin của nhân dân với Đảng. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã thẳng thắn chỉ
ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái tư tưởng
đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ và đưa
ra 4 nhóm giải pháp để chỉnh đốn Đảng, trong đó có 10 yêu cầu về chính trị, tư
tưởng, phê bình và tự phê bình; 6 yêu cầu về cơ chế chính sách; 8 yêu cầu về kiểm
tra, giám sát, kỷ luật Đảng; 5 yêu cầu về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội. Đồng thời, sau 5 năm thực hiện Chỉ
thị 03-CT/TW, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về nhận thức và hành động trong Đảng, trong
toàn hệ thống chính trị và xã hội. Những kết quả đã và đang đạt được trong quá
trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và chỉ thị 05-CT/TW cho đến
nay đã tạo ra động lực phát triển mới trong Đảng, làm cho nhân dân phấn khởi
tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, cho chúng ta thấy rõ giá trị thực tiễn
của tư tưởng: cán bộ, đảng viên phải lấy đạo đức làm gốc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và qua đó càng thấm thía hơn lời dạy của Người để thực hành trong công việc
và cuộc sống: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”./.
NXT-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét