Phủ nhận những thành quả cách mạng là một thủ
đoạn thường thấy của các thế lực thù địch với Đảng Cộng sản và dân tộc Việt
Nam. Chúng vẫn tiếp tục xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp, phủ nhận thành quả cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, phủ nhận thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu xây dựng chủ nhĩa xã hội và
sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, đấu tranh phản bác những quan điểm sai
trái, thù địch đó là rất cấp thiết và cấp bách, nếu không sẽ ảnh hưởng tới uy tín
và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trước hết, chúng ta cần nhận diện âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, đó là: Chúng luôn coi nhẹ, phủ nhận những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới; tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc, trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tập trung công kích, xuyên tạc thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc công tác quản lý, điều hành của chính phủ đối với các dự án kinh tế; cho rằng đất nước vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, người dân nghèo thì không được thụ hưởng…
Chúng xuyên tạc công tác phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực của Đảng; cho rằng, Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề
đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng
sản… Tất cả những luận điệu đó thực chất là nhằm phủ nhận và đòi xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm, chống
phá trắng trợn của các thế lực thù địch và chúng ta có đủ luận cứ để bác bỏ
luận điệu sai trái đó:
Một là, khẳng định tính tất yếu khách quan của
đổi mới và không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi
mới. Đổi mới ở Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội VI
của Đảng (năm 1986). Đó là sự lựa chọn tất yếu nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, là bước ngoặt trong tiến trình
phát triển của đất nước.
Sau gần 32 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ
sung phát triển năm 2011) và gần 37 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước
đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về
vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, trở thành điểm sáng trong thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ; công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được
đặc biệt quan tâm, có nhiều chuyển biến tích cực; công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả nổi
bật; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố;
quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Tất cả
những điều đó cho thấy đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan
trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ,
phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Hai là, đổi mới ở Việt Nam là toàn diện, đồng
bộ, có nguyên tắc, có lộ trình và bước đi thích hợp; đổi mới toàn diện cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
Đổi mới theo những nguyên tắc cơ bản như: Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy
được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội,
những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp; lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng,
Nhà nước ta; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả
hơn; sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng; xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kết hợp
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp sức mạnh của nhân dân
và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Ba là, nước ta là nước dân chủ, tự do - dân
chủ - nhân quyền của nhân dân luôn được tôn trọng và phát huy.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và
Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ
lực thể chế hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết
của phát triển. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Đảng ta sinh ra, trưởng thành
và phát triển trong lòng dân tộc, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che.
Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của dân tộc
Việt Nam. Nhân dân ta, dân tộc ta thoát khỏi vòng nô lệ, kìm kẹp của chế độ
phong kiến, thực dân, trở thành một dân tộc độc lập, tự do. Đó chính là giá trị
dân chủ, nhân quyền vĩ đại nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã giành lại được cho
nhân dân, cho dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, nhân dân ta đã có quyền
làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là những bước tiến lớn
trên con đường xây dựng những giá trị dân chủ và nhân quyền đích thực. Quyền
làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội
đã từng bước được phát huy, góp phần tích cực vào việc động viên nhân dân phấn
khởi đẩy mạnh sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã
hội, củng cố quốc phòng an ninh, đưa công cuộc đổi mới lên một tầm cao và chiều
sâu mới…
Hiến pháp năm 2013 đã dành chương II
"Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân" với 36 điều
hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó,
khoản 1, Điều 14 khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được cộng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật". Đó là cơ sở để đất nước đạt được những thành tựu cụ thể về dân chủ,
nhân quyền mà dư luận thế giới đã ca ngợi và ghi nhận. Việt Nam là nước đầu
tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về
quyền trẻ em. Đến nay, Việt Nam đã ký kết, gia nhập hầu hết các công ước quốc
tế về quyền con người.
Sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về những
thành tựu của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người là những minh chứng sinh
động để bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt
Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 93
năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến
đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội; đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang tiến
hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ
đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới. Những thành tựu đó là kết tinh trí tuệ, sức lực
và bản lĩnh Việt Nam; phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam đồng nghĩa với phủ
nhận một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc; phủ nhận công lao, sự
hy sinh xương máu của bao thế hệ cán bộ, chiến sỹ và nhân dân ta; phủ nhận vai
trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước của Đảng ta; đó là việc làm hoàn toàn
trái với sự thật, với công lý và lẽ phải, xúc phạm quá khứ thiêng liêng của dân
tộc, cần phải vạch trần, đấu tranh phê phán và bác bỏ.
TTTH - KNNTV
0 nhận xét:
Đăng nhận xét