(Ảnh minh họa) |
Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát được Đảng ta xác định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới và đây là vấn đề rường cột trong nội dung đổi mới. Vì vậy, trong nhiều nhiệm kỳ vấn đề này luôn được coi là một nội dung trọng tâm, cần phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động.
Kế thừa và phát
triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các kỳ
đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng
đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII như sau: “Nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với các yêu cầu
xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường
khu vực và thế giới...”.
Tuy nhiên, Văn
kiện Đại hội XIII khẳng định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ. Luật pháp, cơ chế, chính
sách còn những quy định chưa thống nhất, môi trường đầu tư, kinh doanh chưa
thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế
vùng chưa được quan tâm và cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng
lẻo. Vì vậy, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những năm tới cần tập trung vào:
Thứ nhất, thống
nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Kế thừa những nội
dung về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh, cần
tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đồng thời nêu rõ nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, như sau: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh
tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực
quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát
triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”.
Như vậy, điểm mới
của văn kiện Đại hội XIII ở nội dung này là ngay từ đầu văn kiện đã nêu rõ nội
hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta và trên cơ sở
đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất
cách hiểu và thực hiện.
Kinh tế nhà nước
được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, định hướng điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng
của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc trưng, tiến bộ của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các
thành viên; liên kết phối hợp sản xuất, kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều
kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát
triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội,
liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân
được khẳng định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế và được
khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất
là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các công ty,
tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn
trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng
thị trường xuất khẩu.
Đồng thời, văn
kiện lần này cũng nêu rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm
mới nổi bật chính là trong quan hệ này bổ sung nhân tố xã hội. Trong đó cũng
nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nhà
nước thực hiện chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường.
Đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao
những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội, chuyển
đổi cung cấp trực tiếp dịch vụ công sang phương thức đặt hàng. Các tổ chức xã hội
có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát
sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong
quan hệ với các chủ thể, đối tác khác, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành
viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và
tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát cơ quan
và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Thứ hai, tập
trung tháo gỡ các điểm nghẽn và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điểm mới nổi bật
ở đây là việc xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường nói chung,
nhưng tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển
kinh tế thị trường của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ thể là
hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường vừa
qua đã xác định một trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa
hoàn thiện, chồng chéo. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt là do
tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhiều ngành, nghề mới ra đời
cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Vì vậy, văn kiện nêu
rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến
khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập
trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối
hợp giữa các cấp, các ngành”. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính
một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường
kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. “Phấn đấu đến
năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng
đầu”.
Tiếp tục hoàn
thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị
trường. Tuy nội dung này đã được nêu trong các văn kiện Đại hội trước nhưng văn
kiện lần này nhấn mạnh việc thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với
hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi
hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, văn kiện tiếp tục nhấn mạnh phát triển
thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động,
phân bổ và sử dụng các nguồn lực; phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo
các phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử; phát
triển thị trường khoa học - công nghệ, phát triển đồng bộ thị trường tài chính,
tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm... trên nền tảng công nghệ
số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Văn kiện
xác định yêu cầu phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị
trường quyền sử dụng đất; phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách
tiền lương, bảo hiểm xã hội; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội -
nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; xử
lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội,
quốc phòng - an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái...
Xóa bỏ mọi rào
cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ
trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động_Nguồn: vnanet.vn
Như vậy, Văn kiện
Đại hội XIII đề cập nội dung này chú ý đến thể chế, từ việc hoàn thiện thể chế
để tháo gỡ các điểm nghẽn, các rào cản của kinh tế thị trường như xây dựng và
hoàn thiện pháp luật, thể chế hình thành các yếu tố thị trường, các loại thị
trường, thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Mục tiêu quan trọng là nâng
cao chất lượng của thể chế.
Thứ ba, xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Điểm mới, nổi bật
ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế. Phải nâng cao năng lực nội tại mới có thể hội nhập thành công,
tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị trường. Văn kiện Đại hội XIII xác định
rõ, giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước; phát triển kinh tế Việt Nam lớn mạnh trở thành
nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an
ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối
tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những
biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền
kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt,
phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã
ký kết. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế,
thương mại, đầu tư quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập
kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
Thực tiễn hơn
35 năm đổi mới cho thấy, mở cửa, hội nhập quốc tế góp phần quan trọng vào những
thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được. Đồng thời, chính mở cửa, hội nhập quốc
tế sâu rộng cũng tạo áp lực để chúng ta cải cách thành công. Tuy nhiên, quá
trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt mối quan
hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Để hội nhập thành công phải có nội
lực mạnh, đồng thời phải đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác, các thị trường
để tránh rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy
cần nhận thức sâu sắc về hiệu quả của thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay,
phải bảo đảm thu hút được công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường và
làm tốt việc chuyển giao công nghệ, cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước
với các doanh nghiệp nước ngoài.
Những điểm mới
trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực kinh tế về hoàn thiện, nâng
cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế thể hiện sự phát triển lý luận của Đảng trước thực tiễn kinh tế
đang diễn ra, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đồng thời tạo cơ sở
lý luận vững chắc cho các nhiệm kỳ tiếp theo đưa kinh tế nước ta phát triển đi
lên./.
NHB-H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét