Thời gian qua, cùng với sự phát triển của công
nghệ thông tin, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận có sự biến đổi lớn.
Internet, mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ
quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức
lan tỏa và ảnh hưởng của nó rất mạnh mẽ và nhanh chóng, tạo được sự chú ý, quan
tâm theo dõi của số đông người dân, nhất là những người có ảnh hưởng trong xã
hội. Chỉ cần sở hữu phương tiện điện tử (điện thoại thông minh, laptop) có kết
nối Internet, cá nhân có quyền tự do truyền đạt thông tin, ý kiến của mình đến
người khác mọi nơi, mọi lúc. Tình trạng các hội, nhóm tiêu cực xuất hiện trên
không gian mạng có xu hướng ngày càng gia tăng gây tác động xấu đối với người
sử dụng mạng nói riêng và việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội nói chung. Thực
tế này đang đòi hỏi các cơ quan chức năng cần sớm có các biện pháp ngăn chặn
hiệu quả cũng như đặt ra yêu cầu mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội phải
hết sức tỉnh táo để không trở thành nạn nhân của "thế giới ảo".
Thông
qua các hội, nhóm tiêu cực, người dùng có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm,
đăng tải hay lan truyền bất cứ thông tin gì thông qua tài khoản cá nhân của
mình. Điều này mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm dụng, nhất là khi
những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan điểm sai trái, thái
độ cực đoan, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, dẫn đến bị các thế lực thù địch
lợi dụng, lôi kéo, kích động hoặc vì động cơ cá nhân, một số trường hợp đã đăng
tải thông tin sai sự thật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân. Điển hình như các trường hợp: Nguyễn Phước Trung Bảo, Đoàn Kiên
Giang, Nguyễn Thanh Nhã, Lê Thế Thắng, Trương Châu Hữu Danh (trú tại Long An),
Nguyễn Phương Hằng, Lê Anh Dũng (trú tại TP Hồ Chí Minh), Lê Chí Thành (trú tại
Bình Thuận), Nguyễn Huy (trú tại Quảng Trị)... Những trường hợp trên đều bị
truy cứu theo Điều 331, BLHS 2015 về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, cụ
thể là lạm dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội.
Sự
lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng đã và đang tiềm ẩn
nhiều nguy cơ mất an toàn cho cộng đồng. Theo dữ liệu thống kê từ We are
Social, tính đến tháng 01/2022, Việt Nam có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội,
tương đương 78,1% tổng dân số. Từ năm 2021 đến 2022, số người dùng mạng xã hội
ở Việt Nam đã tăng 5 triệu người (6,9%). Với độ phủ sóng rộng cùng một lượng
lớn thời gian hoạt động và tương tác trên các nền tảng xã hội, những gì người
sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng và
phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất là ở nhóm đối tượng vị thành niên
- lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới, dễ bị tổn thương và kích động
tâm lý.
Theo
quy định tại Điều 19, Công ước ICCPR năm 1966: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn
luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được
quy định bởi pháp luật, nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe hoặc đạo đức của
xã hội”. Như vậy, theo quy định của pháp luật quốc tế, quyền tự do ngôn luận
không phải là tuyệt đối.
Với
sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, mạng xã hội xuyên quốc gia như
Facebook, Twitter, Youtube… đã tạo ra những cơ hội, khả năng tiếp xúc, giao lưu
văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới. Nhưng chưa bao giờ
môi trường ảo lại nhiều tác động tiêu cực như hiện nay. Tình trạng lợi dụng tự
do ngôn luận phát tán tin giả, tin sai sự thật, các nội dung phản cảm, thiếu
tính giáo dục, kích động bạo lực trên không gian mạng đang diễn biến rất phức
tạp. Nhận thức rõ những nguy cơ lợi dụng tự do ngôn luận trên không gian mạng
đe dọa đối với an ninh quốc gia, nhiều nước trên thế giới cũng đã triển khai
các biện pháp nhằm kiểm soát tốt hơn những thông tin được phép đăng tải trên
mạng xã hội và hạn chế tối đa sự lan tràn, phát tán những thông tin giả mạo và
độc hại.
Đảng
và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền
tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay
trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công
dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội
họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều
10). Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Khung pháp lý của nước ta
về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc
tế về quyền con người. Đáng chú ý là Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 16/9/2013
của Ban Bí thư khóa XI về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng”;
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ về “Quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng”; Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày
17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an
toàn thông tin mạng trong tình hình mới”. Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW
ngày 22/1/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”,
Ban Tuyên giáo Trung ương tăng cường chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống
hoạt động lợi dụng Internet chống phá Đảng, Nhà nước. Các cơ quan chức năng của
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chủ động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, phát
hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý các đối tượng lợi dụng Internet để vi phạm
pháp luật. Cùng với đó là việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng
(Bộ Quốc phòng) theo Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng
Chính phủ.
Luật
Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm
2018 đều quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm như đăng tải, phát tán thông
tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong
nhân dân; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc,
anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan,
tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân…
Bên
cạnh các quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý không gian mạng từ cơ
quan có thẩm quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người thông qua cơ chế giám sát cũng hết sức cần
thiết. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử
dụng mạng Internet. Nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của
người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường
mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở
thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng. Cơ quan chức năng
cần thường xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, kịp thời điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách giúp quản lý hiệu quả, vừa
phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và
cộng đồng, vừa theo kịp sự phát triển của không gian mạng…
MD-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét