Tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh có những nội dung độc đáo, sáng tạo thể hiện sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Trước hết, Hồ Chí Minh thừa nhận và tôn trọng
những giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo phù hợp với xã hội mới. Người thừa nhận,
tôn giáo chân chính nào cũng có những nội dung mang tính nhân nghĩa, nhân văn,
tôn giáo nào cũng có tính hướng thiện.
Thứ
hai, Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ sự tương đồng tôn giáo với cách mạng, tạo
nên sự đồng thuận của toàn dân tộc Việt Nam để thực hiện thành công sự nghiệp
cách mạng, làm cho đồng bào tôn giáo có cuộc sống tốt đời đẹp đạo, “thong dong
phần đạo, no ấm phần đời”.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội và tôn giáo có những sự tương đồng lớn,
khác biệt nhỏ. Xã hội XHCN cũng phù hợp với khát vọng, ước mơ của tín đồ các
tôn giáo như ở cõi Niết bàn, chốn Tây phương cực lạc, thiên đường “nước Chúa
ngàn năm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận định: “Học thuyết của Khổng Tử có
ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó
là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc
biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp
với nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó
sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Đó
chính là sự tương đồng giữa lý tưởng tôn giáo với mục tiêu, lý tưởng của cách mạng:
đều mưu cầu hạnh phúc cho con người. Chỉ có cách mạng mới đem lại cơm no, áo ấm
cho đồng bào, mới đảm bảo cho đồng bào tự do sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Nước
độc lập thì tôn giáo mới được tự do. Bởi thế, “kính Chúa và yêu nước” phải kết
hợp với nhau; “tốt đời, đẹp đạo” phải đi liền với nhau, không thể phân chia. Vì
thế, đồng bào các tôn giáo cần phải và thực tế đã đoàn kết cùng toàn thể dân tộc
kháng chiến, kiến quốc. Đây là yêu cầu cần phải có đối với mọi tín đồ Việt Nam
chân chính, yêu nước. Tư tưởng khoan dung đó góp phần giải toả sự băn khoăn, mặc
cảm của đồng bào tôn giáo; vô hiệu hoá luận điệu xuyên tạc của kẻ thù: cộng sản
vô thần sẽ tiêu diệt tôn giáo, tôn giáo không thể sống chung với cộng sản.
Thứ
ba, Hồ Chí Minh đã xây dựng và thực thi chính sách tôn giáo đúng đắn, mẫu mực,
chân thành, hợp lòng dân và mang lại hiệu quả thiết thực.
Người
luôn tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, quan tâm sâu sắc đến đời sống mọi mặt của
giáo dân. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh sớm ban hành
các văn bản pháp luật quy định đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Chính phủ ta tuyên bố tín ngưỡng tự do và Lương Giáo
đoàn kết”.
Thứ
tư, càng tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của đồng bào bao nhiêu, Hồ Chí
Minh càng vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực
thù địch và vô hiệu hoá sự lợi dụng đó, đồng thời cũng nghiêm khắc phê bình cán
bộ, đảng viên vi phạm chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước bấy nhiêu.
Trước
năm 1945, Người đã tố cáo sự cấu kết giữa giai cấp tư sản với Nhà thờ để bóc lột,
áp bức nhân dân lao động, nhất là nhân dân các nước thuộc địa. Khi cách mạng
thành công, đồng bào tôn giáo cũng trở thành người chủ chân chính của đất nước,
họ vừa là công dân, vừa là tín đồ. Với tư cách công dân, đồng bào cần và phải
làm tròn bổn phận công dân - tuân thủ pháp luật, đồng thời họ hoàn toàn được bảo
đảm sinh hoạt theo pháp luật, không ai được ngăn cấm, vi phạm quyền sinh hoạt
đó. Nếu đồng bào mắc mưu, bị lôi kéo, lừa gạt thì cần tuyên truyền cảm hóa,
khoan hồng đại độ: “Tổ quốc, đồng bào và Chính phủ bao giờ cũng khoan hồng. Một
khi các người đã trở về với Tổ quốc thì các người sẽ được hoan nghênh rộng rãi
như những người con đi lạc mới về”. Còn những ai lợi dụng tôn giáo chống phá
cách mạng cũng phải bị nghiêm trị, bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng
trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản nước. Đồng thời, Người cũng
nghiêm khắc phê bình cán bộ do thiếu hiểu biết, có nơi đã “hành động lố lăng,
phạm đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo”
Kế
thừa những tư tưởng khoan dung tôn giáo của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề
ra nhiều chủ trương, chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của
người dân. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay đã chứng minh tính đúng đắn của những
chính sách đó./.
ĐBC-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét