CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI: “Ở VIỆT NAM QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC KHÔNG THUỘC VỀ NHÂN DÂN”

 

Tóm tắt: Các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân chủ để chống phá cách mạng nước ta. Hiện nay, các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc  quan điểm “Ở Việt Nam quyền lực Nhà nước không thuộc về nhân dân”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, ngay từ khi thành lập chính quyền non trẻ cho đến nay đều nhất quán quan điểm: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, chính quyền của dân, do dân và vì dân. Bài viết xin tiếp cận dưới góc độ một số vấn đề cơ bản trong đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái trên và khẳng định cả trên lý luận và đời sống chính trị - pháp lý ở đất nước ta: “tất cả quyền lực nhà nước luôn thuộc về Nhân dân”.

Từ khóa: chính quyền  nhân dân, quyền lực nhà nước.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp”[1] như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định và luôn chủ trương thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe phái”, “Ở Việt Nam quyền lực Nhà nước không thuộc về nhân dân” như các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc. Bài viết xin tiếp cận dưới góc độ một số vấn đề cơ bản trong đấu tranh, xử lý tham nhũng, tiêu cực để góp phần thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta, nhằm góp phần bác bỏ quan điểm sai trái trên và khẳng định cả trên lý luận và đời sống chính trị - pháp lý ở đất nước ta: “tất cả quyền lực nhà nước luôn thuộc về Nhân dân”.

Sau thắng lợi của Cách tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đồng thời thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân - khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong Điều 1 của Hiến pháp 1946, đã khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”[2].

Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức và xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh, nêu cao và thực hành tư tưởng:

“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[3].

Như vậy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của nhà nước, của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân. Quyền lực nhà nước cho dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân… Những tư tưởng và lời văn của ai đó, thế lực nào đó nhân danh “dân chủ, nhân quyền” mà phản ảnh sai lệch về những vấn đề cốt yếu trên đây của các văn bản pháp lý và đời sống chính trị - pháp lý ở Việt Nam những năm qua đều chứa đựng những dụng ý xấu, xuyên tạc và phủ nhận bản chất của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đúc rút từ thực tiễn thành công, thất bại của các nhiệm vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy nguyên nhân cốt lõi, cái gốc của mọi vấn đề là ở cán bộ. Người cho rằng: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[4]. Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người còn luôn đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân; tất cả các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, phục vụ nhân dân và hành xử vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đều phải là công bộc của nhân dân. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng luôn nêu cao tinh thần tự giáo dục và rèn luyện bản thân và đội ngũ cán bộ thực hành tư tưởng dân chủ mới trong đời sống chính trị - pháp lý ở nước ta, đó là: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? “Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải là làm quan cách mạng”[5].

Khi Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn thì khâu quyết định nhất vẫn là việc thực hành của cán bộ. Chính vì vậy, để đạt được tư tưởng pháp lý tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, Đảng và và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn và yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức: Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Nhưng để bảo đảm thực hiện được yêu cầu đó trong một chế độ xã hội vừa đấu tranh lật độ các tàn tích của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, vừa phải thực hành kháng chiến kiến quốc và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì không phải dễ dàng, cần nhiều yếu tố, điều kiện bảo đảm. Một trong những điều kiện tiên quyết là phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực, không để quyền lực của nhân dân bị phân rã, chia tách, biến dạng thành quyền lực của cá nhân, của nhóm lợi ích - lợi ích nhóm.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, thực hành và biến chủ trương “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội. Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện vấn đề này. Nghị quyết Đại hội XII đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến”[6].

Quốc hội nước ta cũng bổ sung, hoàn thiện và ban hành Hiến pháp năm 2013. Tại Điều 2 của Hiến pháp đã hiến định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; Điều 3 thiết lập và đòi hỏi: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”; Điều 6 xác lập các quyền hạn của nhân dân: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Để đảm bảo “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, “quyền lực nhà nước là thống nhất”, quyền lực nhà nước còn được Hiến pháp tổ chức thành ba bộ phận: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nhằm bảo đảm sự thống nhất, được sử dụng đúng mục đích và được thực thi có hiệu lực, hiệu quả. 

Những năm qua, trong đời sống chính trị - pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan và đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần quan trọng không chỉ trong nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội và nhất là vai trò của nhân dân đã được phát huy trong việc bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”[7]. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, chắc chắn. Việc xử lý nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, “chống” và “xây” theo nguyên tắc: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì”, không còn tư duy “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.

Với những hành động kịp thời và kiên quyết trên, Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng. Qua đó đã xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh trước pháp luật nhiều vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, trong đó có nhiều cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, điều đó cho thấy sự quyết tâm của Đảng trong xử lý tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước, làm nức lòng các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước. Có được kết quả đó, trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên quan tâm, chỉ đạo kiên quyết, triệt để, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng thực thi với quyết tâm cao, với tinh thần nói đi đôi với làm và làm cho bằng được, không hô khẩu hiệu và không lấn sân sang công việc của các cơ quan chức năng…

Tuy nhiên thời gian qua, việc chống tham nhũng, tha hóa quyền lực ở nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, đó là: Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa mạnh, hiệu quả còn hạn chế. Hoạt động kiểm tra của hệ thống hành pháp còn yếu. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước còn chưa hợp lý, hiệu quả. Việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn bất cập. Do tác động của mặt trái kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược phai nhạt lý tưởng, suy thoái đạo đức, lối sống, có biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí. Quyền làm chủ của nhân dân, có mặt chưa được coi trọng đúng mức, còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân chưa được đẩy lùi, cơ chế bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân chưa được cụ thể hóa đầy đủ. 

Tuy còn những hạn chế, nhưng những việc làm trên đây đã khẳng định, quyền lực nhà nước ở Việt Nam là hoàn toàn thuộc về nhân dân. Quyền lực đó là sự thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận mác xít của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị của nhân dân trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách, công cụ, sự hiểu biết và tinh thần làm chủ của mình trên mọi phương diện hoạt động. Những tư tưởng, hành động phủ nhận thành quả pháp quyền này ở Việt Nam, đều nhằm mục đích đen tối, lừa phỉnh, xóa bỏ và chiếm đoạt quyền lực của nhân dân.

Để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong thời kỳ mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), của Đảng ta một lần nữa xác định và thực hành chủ trương: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh và đòi hỏi: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”[8]. Đặc biệt, nhất quán thực hành những tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa đúng đắn đó, Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh và đề xuất thực hiện chủ trương: “Tiếp tục cụ thể hóa phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng[9]. Những quyền lực nhà nước đều được Đảng thể hiện và hiện thức hóa trong đường lối “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ở đó, Đảng đòi hỏi phải: Xác định rõ, ràng mạch, cụ thể quyền hạn, trách nhiệm và thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương.

Như vậy, cả lịch sử hình thành Nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa đầu tiên, đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo, đều cho thấy ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối về thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Hoàn toàn không có một chút nào phản ánh sự xa rời với những tư tưởng căn bản đầu tiên mà tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra về xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà ở đó mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Những tư tưởng, quan điểm và hành động phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị chống thành quả cách mạng của nhân dân Việt Nam. Động cơ và mục đích chính trị của họ không ngoài vấn đề gì khác hơn đó là phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong hơn 75 năm qua. Mục đích sâu xa là lợi dụng bàn luận về những vấn đề dân chủ của đất nước để xuyên tạc, phủ nhận luôn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng chế độ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Những tư tưởng, quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động này tất yếu sẽ bị thất bại không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước nhờ vào chính những thành quả cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới./.



[1] Trích lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội, ngày 29-11-2017.

[2] Xem: Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Điều 1, Hiến pháp năm 1946.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 232.

[4] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 313.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 572.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.38.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.160.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.170.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.96.

0 nhận xét: