“Trong chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối
quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích
của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô
hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ”. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
là điều kiện tiên quyết để bảo đảm nhân dân làm chủ đất nước và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhân dân làm chủ đất nước là đặc trưng cơ bản
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương
thức, phương tiện quan trọng hàng đầu để Đảng lãnh đạo đất nước và nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình.
Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng chỉ rõ: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán
triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thực sự tin tưởng, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm: “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân
dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu”. Quyền làm chủ đất nước của nhân dân là bản chất và cốt lõi
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phản ánh ý chí của nhân dân, bảo vệ quyền
và lợi ích của nhân dân được pháp luật thừa nhận, khơi dậy sức sáng tạo của
nhân dân, sử dụng hệ thống thể chế để bảo đảm giữ vững lòng dân với tư cách là
chủ nhân của đất nước. Đồng chí khẳng định: “bản chất cốt lõi nhất của dân chủ
là bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
Đây là một luận điểm phản ánh đặc trưng bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đó là: vì nhân dân, lấy nhân dân làm gốc, làm chủ, làm lực lượng quyết
định toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Luận điểm này được kế
thừa từ truyền thống “lấy dân làm gốc”, coi trọng sức dân trong lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; là sự vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong thời đại mới; phản ánh quan điểm xuyên suốt,
thống nhất của Đảng ta với tư cách là lực lượng tiên phong, tiên tiến, lãnh đạo
đất nước và xã hội trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Tổng Bí
thư chỉ rõ: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Dân chủ xã hội chủ
nghĩa được thể hiện ở chỗ, nhân dân có quyền làm chủ, tham gia giải quyết công
việc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa,
xã hội,... Chẳng hạn, trong quản lý phát triển xã hội, dân chủ thể hiện rõ nhất
ở việc người dân cùng với Nhà nước tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, như
việc làm, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, phúc lợi công cộng... Người dân
chẳng những là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà còn
là đồng chủ thể với Nhà nước trong xây dựng, hoạch định
chính sách và đánh giá việc thực hiện chính sách. Quy chế Dân chủ ở cơ sở khẳng
định vai trò của người dân ở cơ sở: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra;
đến Đại hội XIII của Đảng bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng”
lợi ích. Người dân được bảo đảm các điều kiện, như bảo đảm dân sinh, dân quyền;
nâng cao dân trí; thực hiện dân chủ... Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở: “Cùng
với việc chăm lo đời sống nhân dân, tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân
đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước
cần động viên, tổ chức nhân dân tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các công
việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Đối với những chủ trương có quan hệ
trực tiếp tới đời sống nhân dân, cấp ủy đảng cần lắng nghe ý kiến nhân dân
trước khi quyết định. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” phải
trở thành khẩu hiệu hành động, thành phương châm công tác vận động quần chúng.
Phải thực hiện đúng nguyên tắc: Chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và trình độ của nhân dân... nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có
ý thức và thái độ đúng đắn với nhân dân, yêu thương, gần gũi, tôn trọng, lắng
nghe nhân dân”.
Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng yêu cầu: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách
nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(6);
“tạo mọi điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia có hiệu quả vào
việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội”. Điều này có nghĩa là, ở phương diện cá
nhân, mỗi con người trong tư cách công dân là một con người chính trị, có quyền
tham gia vào đời sống chính trị, có quan điểm, chính kiến rõ ràng, có quyền
được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin, quyền bảo lưu ý kiến theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, phù hợp với pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng,
quy định, quy chế của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội mà mình tham gia
với tư cách là thành viên. Ở phương diện xã hội, đó là quyền tham gia xây dựng,
đánh giá đường lối, chính sách, trong xây dựng thể chế và kiểm soát quyền lực.
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, dân chủ xã hội chủ nghĩa
phải gắn với công bằng và bình đẳng xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước, chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Công
bằng xã hội không chỉ là công bằng, bình đẳng trong phân phối lợi ích, mà còn
là công bằng, bình đẳng về cơ hội phát triển dành cho tất cả
mọi người, không có sự phân biệt. Đây là những đặc trưng làm nên sự khác biệt
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam so với các nền “dân chủ tự do”
khác. Tổng Bí thư phân tích và chỉ rõ: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo
công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế
giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu
thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn.
Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn
của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các
phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội... Sự rêu
rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình
đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn
chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một
khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn
át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là
“tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được
các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên
chế của các tập đoàn tư bản”.
Với những đặc
trưng ưu việt đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một chế độ dân chủ thực
sự; phản ánh đầy đủ tính pháp lý, tính chính trị và mang tính nhân dân, tính
nhân văn sâu sắc. Đó là nền dân chủ “lấy con người làm trung tâm”, “thực sự vì
con người”. Chính vì lẽ đó, Tổng Bí thư khẳng định: “xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ
trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.
VTK-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét